| Hotline: 0983.970.780

Tích hợp cảnh báo sạt lở vào quy hoạch phát triển bền vững

Thứ Tư 15/10/2025 , 12:19 (GMT+7)

‘Sau mỗi trận sạt lở, chúng ta lại cứu nạn, khắc phục hậu quả. Nếu đầu tư từ khâu đánh giá, dự báo, cảnh báo sớm, thiệt hại sẽ giảm đi nhiều lần’.

TS. Trịnh Hải Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản nhấn mạnh đến việc tích hợp phân vùng, cảnh báo sạt lở vào quy hoạch, quản lý đất đai, đảm bảo an toàn cho người dân từ gốc.

Sạt lở ở khu vực Lũng Thóa, Minh Ngọc, Tuyên Quang vào sáng 14/10/2025. Ảnh: Đại Trung.

Sạt lở ở khu vực Lũng Thóa, Minh Ngọc, Tuyên Quang vào sáng 14/10/2025. Ảnh: Đại Trung.

Vùng an toàn có thể trở thành điểm nóng sạt lở

Những trận mưa lớn liên tiếp ở miền núi phía Bắc một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo về hiểm họa sạt lở đất ngày càng gia tăng.

Trong những ngày tháng 9, tháng 10 năm 2025, các tỉnh miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ nước ta liên tiếp phải hứng chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai cơn bão lớn là bão số 10 và bão số 11 vừa qua, kéo theo hoàn lưu bão là những trận mưa lớn kéo dài, gây ra hàng loạt vụ sạt lở đất nghiêm trọng.

Cụ thể, sau khi bão số 10 (cuối tháng 9) suy yếu và đi vào Thượng Lào, hoàn lưu bão vẫn tiếp tục trút lượng mưa lớn xuống các tỉnh vùng núi. Điều này đã kích hoạt các điểm sạt lở nguy hiểm, điển hình là vụ sạt lở đất tại xã Lũng Cú, Tuyên Quang, nơi đã có ít nhất 4 người bị vùi lấp và mất tích.

Mức độ tàn phá tiếp tục gia tăng khi bão số 11 (đầu tháng 10) đổ bộ và di chuyển. Hoàn lưu bão tiếp tục gây ra lũ lụt và sạt lở đất thảm khốc tại nhiều tỉnh, bao gồm Sơn La, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh Hóa. Những khối đất đá khổng lồ đổ ập xuống đã làm chia cắt giao thông, vùi lấp nhà cửa và cướp đi sinh mạng của nhiều người dân.

Theo thống kê ban đầu, chỉ riêng sau bão số 11, các sự cố sạt lở và mưa lũ đã làm 15 người thiệt mạng và mất tích, đồng thời gây ra tổng thiệt hại về kinh tế ước tính lên đến hàng nghìn tỷ đồng, cho thấy tính chất cực đoan và khốc liệt của thiên tai trong năm 2025.

Theo quan điểm tổng hợp từ các chuyên gia, hiện tượng sạt lở đất liên tiếp xảy ra những năm gầy đây không còn được nhìn nhận là một hiện tượng bất thường theo chu kỳ mùa vụ mà còn là hệ quả tích hợp của rủi ro tai biến địa chất nội sinh và ngoại sinh kết hợp cùng áp lực khai thác và phát triển của con người dưới tác động gia tăng của biến đổi khí hậu toàn cầu.

TS. Trịnh Hải Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng đã đến lúc các địa phương phải chuyển từ tư duy “ứng phó sau thiên tai” sang “quản lý rủi ro thiên tai chủ động, coi phòng ngừa là nhiệm vụ thường trực”.

“Cứ sau mỗi trận mưa lớn, chúng ta lại chứng kiến cảnh chạy lũ, cứu nạn, khắc phục hậu quả. Nhưng nếu đầu tư từ khâu đánh giá, dự báo, cảnh báo, quy hoạch sớm, thiệt hại sẽ giảm đi nhiều lần”, ông phân tích.

TS. Trịnh Hải Sơn lưu ý, biến đổi khí hậu đang làm gia tăng các hiện tượng mưa cực đoan, khiến những vùng trước đây được coi là “an toàn” cũng có thể trở thành điểm nóng sạt lở. Vì vậy, quản trị rủi ro cần được nâng cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã, từ quy hoạch tổng thể tới từng hộ dân.

Theo ông, mỗi trận sạt lở không chỉ là bài học về thiên tai mà còn là lời nhắc về trách nhiệm, rằng bảo vệ tính mạng con người không chỉ là nhiệm vụ cứu hộ, mà phải bắt đầu từ công tác quản lý đất đai, quy hoạch và nhận thức ngay từ hôm nay.

Khoa học phải dẫn đường cho quy hoạch

Theo TS. Trịnh Hải Sơn, khu vực miền núi phía Bắc vốn có địa hình chia cắt mạnh, tầng đất đá phong hóa dầy và không ổn định. Trong điều kiện mưa lớn và kéo dài nước ngấm sâu vào đất, gia tăng đáng kể độ ẩm của đất. Khi đất đạt đến trạng thái bão hòa nước, các liên kết trong đất bị suy yếu, khiến đất mất đi sự ổn định về cấu trúc kết cấu, đặc biệt là trên các sườn dốc dễ gây ra hiện tượng sạt lở đất. “Tuy nhiên, yếu tố tự nhiên chỉ là một phần. Tác động của con người như chặt phá rừng, mở đường, khai thác đất đá, hoặc xây dựng nhà cửa trên địa hình dốc mà chưa được đánh giá kỹ về địa chất đã khiến rủi ro gia tăng nhanh hơn”, ông nói.

Lãnh đạo xã Hạnh Phúc, tỉnh Lào Cai khảo sát một số điểm sạt lở sau mưa lũ. Ảnh: UBND xã Hạnh Phúc.

Lãnh đạo xã Hạnh Phúc, tỉnh Lào Cai khảo sát một số điểm sạt lở sau mưa lũ. Ảnh: UBND xã Hạnh Phúc.

Thực tế tại nhiều địa phương, dân cư vẫn sinh sống ở khu vực từng ghi nhận nứt nẻ, sụt lún hoặc gần chân taluy, ven suối, những nơi tiềm ẩn nguy cơ cao. Việc thiếu thông tin cảnh báo hoặc quy hoạch chưa cập nhật dữ liệu địa chất khiến công tác phòng ngừa còn bị động.

Đặc biệt là “không ít nơi, địa phương chưa tích hợp bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất vào quy hoạch sử dụng đất hay phát triển hạ tầng. Khi đó, những “điểm yếu” tiềm ẩn nguy cơ tai biến không được nhận diện sớm, khiến sạt lở dễ tái diễn năm này qua năm khác”, TS. Sơn nhấn mạnh.

Theo Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, đơn vị này đang hoàn thiện bản đồ phân vùng nguy cơ sạt lở đất đá cho các tỉnh miền núi, trên cơ sở tổng hợp dữ liệu về địa chất, địa mạo, độ dốc, lượng mưa, thảm phủ và mật độ dân cư. Nếu bản đồ được sử dụng đúng mục đích, chính quyền có thể biết khu vực nào an toàn để phát triển dân cư, khu vực nào chỉ được phép sản xuất, khu vực nào cần cảnh báo hoặc cấm tuyệt đối xây dựng.

Theo ông, việc áp dụng bản đồ này vào quy hoạch, cấp phép xây dựng và quy trình tái định cư sẽ giúp giảm đáng kể thiệt hại khi thiên tai xảy ra. “Phát triển bền vững cần phải bắt đầu từ nền tảng vững chắc”, ông nói.

Thực hiện Đề án “Cảnh báo sớm sạt lở đất, lũ quét khu vực miền núi, trung du Việt Nam”, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản đã điều tra và thành lập bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá cho 25 tỉnh và xây dựng bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 cho 15 tỉnh trung du, miền núi. Đến năm 2025, Viện đặt mục tiêu điều tra, xây dựng được bộ dữ liệu, lập bản đồ hiện trạng, bản đồ phân vùng nguy cơ, phân vùng rủi ro thiên tai sạt lở đất, lũ quét tỷ lệ 1:50.000, hiển thị trên nền thông tin địa lý tỷ lệ 1:25.000 cho toàn bộ 37 tỉnh trung du và miền núi Việt Nam trong Đề án (các tỉnh theo địa giới hành chính trước ngày 1/7/2025).

Ba giải pháp trụ cột: Kỹ thuật - sinh thái - cộng đồng

Về giải pháp, TS. Sơn cho rằng không thể chỉ dựa vào các biện pháp công trình như kè đá, tường chắn hay rọ thép. Nếu chỉ “vá” điểm sạt lở mà không phục hồi thảm thực vật, không kiểm soát dòng chảy bề mặt thì những công trình đó dễ bị phá hủy theo thời gian và khi có mưa lớn cực đoan xảy ra.

Theo ông, hướng tiếp cận hiệu quả nhất là kết hợp ba trụ cột: kỹ thuật - sinh thái - cộng đồng.

Về kỹ thuật, cần xây dựng rãnh thoát nước, gia cố taluy, xử lý nền đất yếu, lắp hệ thống quan trắc trượt lở tại các khu dân cư trọng điểm.

Về sinh thái, khôi phục rừng phòng hộ, trồng cây bám đất tại các sườn đồi trọc, quản lý nghiêm việc khai thác đất đá ven suối.

“Giải pháp công trình nếu không đi cùng giải pháp sinh thái thì chỉ là tạm thời. Còn nếu cộng đồng được trang bị kiến thức, họ sẽ trở thành “chuyên gia phòng tránh thiên tai” tại chỗ, giúp giảm thiểu rủi ro”, TS. Sơn chia sẻ.

Theo chuyên gia, việc cấp bách nhất hiện nay là rà soát toàn bộ công trình, nhà dân, trường học, trụ sở nằm trong vùng có nguy cơ cao để di dời hoặc gia cố.

Cùng với đó, cần lồng ghép bản đồ nguy cơ rủi ro sạt lở vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, từ giao thông, dân cư đến hạ tầng. Mỗi dự án cần có bước đánh giá địa chất bắt buộc trước khi thi công, tránh tình trạng “đường mở đến đâu, sạt lở theo đến đó”.

TS. Trịnh Hải Sơn cho rằng đầu tư cho hệ thống quan trắc, cảnh báo sớm theo thời gian thực cũng rất cần thiết. “Chúng ta hoàn toàn có thể ứng dụng công nghệ cảm biến, radar, viễn thám và dữ liệu mưa để cảnh báo sớm cho từng bản, từng xã. Chi phí không quá lớn so với thiệt hại do sạt lở gây ra”, ông nói.

Về cộng đồng, cần tổ chức nhiều hơn các buổi tập huấn chuyên sâu để người dân nhận diện các dấu hiệu tiền sạt lở. Các dấu hiệu này bao gồm: Nền đất/mặt đường nứt nẻ bất thường (đặc biệt là nứt ngang), tường nhà/công trình bị nghiêng, biến dạng rõ rệt, sự xuất hiện của suối hoặc mạch nước rỉ bất thường (đột ngột tăng lưu lượng hoặc độ đục) tại các khe nứt hoặc chân sườn dốc, và sự xuất hiện của tiếng động lạ hoặc tiếng nứt vỡ phát ra từ lòng đất vào ban đêm. Phải thiết lập quy trình báo cáo nhanh để chính quyền địa phương có cơ sở đưa ra quyết định sơ tán khẩn cấp. Người dân phải thường xuyên quan sát các biến động địa hình xung quanh nhà, theo dõi sát sao tình trạng sụt lún hoặc dịch chuyển làm cây cối/cột điện nghiêng đổ bất thường.

Khi nhận thấy bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào hoặc nhận được tin cảnh báo từ chính quyền, phải ngay lập tức sơ tán theo lộ trình đã định trước, ưu tiên đến các vị trí nơi cao ráo, nền địa chất ổn định đã được khảo sát và phê duyệt là điểm trú ẩn an toàn. Các lực lượng tại chỗ (dân quân, công an xã...) cần được tập huấn về sử dụng và đọc dữ liệu từ các thiết bị giám sát đơn giản nhưng hiệu quả về mặt chi phí. Đó có thể là thiết bị đo mưa nhân dân, máy đo độ ẩm đất, thiết bị đo độ nghiêng mini gắn trên mái dốc, hoặc camera theo dõi dịch chuyển điểm mốc để liên tục theo dõi tình trạng ổn định của sườn dốc, từ đó có dữ liệu ra quyết định sơ tán với độ chính xác và kịp thời cao hơn.

“Hạn chế thiệt hại do sạt lở không phải là điều bất khả kháng nếu chính quyền và người dân cùng hành động sớm. Điều quan trọng là chúng ta nhìn vào bản đồ phân vùng nguy cơ rủi ro và chấp nhận di dời những công trình nằm trong vùng nguy hiểm, tổ chức phát triển theo hướng bền vững, an toàn hơn”, TS. Trịnh Hải Sơn nhấn mạnh.

Xem thêm
Chống ngập đô thị: [Bài 4] Tạo 'khoảng thở' bằng quản lý hạ tầng thông minh

Các đô thị cần tạo ‘khoảng thở’ từ hệ thống quản lý cốt nền minh bạch, thoát nước thông minh, không gian sinh thái hài hòa với tự nhiên.

Quảng Ngãi thu gom triệt để rác thải nhựa trên biển và đại dương

Mục tiêu của tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2030 sẽ thu gom triệt để, giảm 70% rác nhựa trên biển và đại dương, xây dựng môi trường biển xanh, sạch.