Từ những ngày đầu kháng chiến đầy gian khó đến công cuộc kiến thiết đất nước sau hòa bình, từ những bước đi ban đầu còn nhiều bỡ ngỡ đến những thành tựu khoa học công nghệ ngang tầm khu vực và thế giới, ngành địa chất đã khẳng định vai trò thầm lặng nhưng vô cùng quan trọng, là “hậu phương” vững chắc cung cấp cơ sở tài nguyên, khoáng sản cho mọi lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội.

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập ngành Địa chất Việt Nam, Thứ trưởng Bộ NN-MT Trần Quý Kiên trao Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước cho Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Ảnh: Mai Đan
Khởi nguồn trong khói lửa kháng chiến
Ngành địa chất Việt Nam chính thức ra đời vào năm 1945, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa khai sinh. Khi đó đất nước còn muôn vàn khó khăn, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã sớm nhận thức rõ tầm quan trọng của tài nguyên, khoáng sản đối với công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Các cơ sở điều tra, nghiên cứu địa chất đầu tiên được thành lập, tập hợp những trí thức, cán bộ trẻ đầy nhiệt huyết, trong đó có nhiều người được đào tạo ở nước ngoài trở về.
Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, nhiều mỏ than, sắt, mangan, thiếc… được phát hiện, khai thác kịp thời, góp phần quan trọng vào sản xuất vũ khí, khí tài và hậu cần kháng chiến. Địa chất Việt Nam từ đó gắn chặt với sứ mệnh “khai thác tài nguyên cho độc lập dân tộc”.
Sau năm 1954, miền Bắc được giải phóng, công cuộc kiến thiết đất nước bước vào giai đoạn mới. Ngành Địa chất được củng cố, mở rộng với hàng loạt viện nghiên cứu, liên đoàn điều tra địa chất được thành lập. Đây là thời kỳ ghi dấu bước phát triển vượt bậc, khi đội ngũ địa chất lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, bắt đầu triển khai những công trình điều tra cơ bản quy mô lớn.
Những bản đồ địa chất tỷ lệ 1:500.000, 1:200.000, rồi 1:50.000 được biên soạn và công bố, tạo nền tảng khoa học để quản lý, quy hoạch, khai thác tài nguyên. Hàng loạt mỏ khoáng sản quan trọng được phát hiện: than Quảng Ninh, sắt Thái Nguyên, apatit Lào Cai, bauxit Tây Nguyên, titan ven biển miền Trung, đất hiếm Lai Châu, vàng Bồng Miêu, đồng Sin Quyền… Những phát hiện này trở thành nguồn lực chiến lược, nuôi dưỡng nhiều ngành công nghiệp then chốt của Việt Nam.
Cùng với phát hiện khoáng sản, các nghiên cứu về địa chất thủy văn, địa chất công trình, tai biến địa chất cũng được triển khai, hỗ trợ đắc lực cho xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị, thủy điện, nông nghiệp. Đặc biệt, ngành Địa chất đã đóng góp quan trọng trong việc tìm kiếm dầu khí, mở ra triển vọng xây dựng ngành công nghiệp dầu khí non trẻ của đất nước.

Những nhà địa chất đã in dấu chân trên khắp các nẻo đường của Tổ quốc từ núi rừng đến biển đảo. Ảnh: Mai Đan.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngành Địa chất tiếp tục gắn bó mật thiết với tiền tuyến. Nhiều đoàn địa chất đã vượt Trường Sơn, bám trụ tại các chiến trường để tìm nguồn nước, tìm vật liệu xây dựng, cung cấp bản đồ địa chất cho quân đội. Không ít nhà địa chất đã hy sinh nơi rừng sâu núi thẳm, máu và mồ hôi của họ thấm vào từng phiến đá, dòng suối. Những cống hiến thầm lặng ấy góp phần không nhỏ vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, ngành Địa chất bước vào thời kỳ toàn diện mới: điều tra trên phạm vi cả nước, từ đất liền đến hải đảo, thềm lục địa. Những công trình nghiên cứu địa chất biển, địa chất dầu khí được triển khai, phục vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo và khai thác tài nguyên biển.
Đổi mới và hội nhập
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, ngành Địa chất đứng trước cả thời cơ và thách thức. Nhu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi nguồn lực tài nguyên lớn, trong khi xu thế quốc tế đặt ra yêu cầu bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Ngành Địa chất đã chủ động đổi mới tư duy, phương pháp điều tra, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
Hàng loạt chương trình điều tra cơ bản địa chất và khoáng sản trên phạm vi cả nước được triển khai, như lập bản đồ địa chất khoáng sản 1:50.000 phủ kín lãnh thổ, đánh giá tiềm năng khoáng sản chiến lược, nghiên cứu địa chất tai biến, biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, sụt lún… Các dự án hợp tác quốc tế được mở rộng, đưa cán bộ địa chất Việt Nam tiếp cận công nghệ hiện đại, tham gia mạng lưới nghiên cứu toàn cầu.

Lãnh đạo Bộ NN-MT bàn giao kết quả Đề án Tây Bắc cho 14 tỉnh trong khu vực. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Ngành cũng từng bước chuyển mình từ “điều tra phát hiện” sang “điều tra đánh giá, dự báo”, cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định chính sách, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Các nghiên cứu địa chất môi trường, địa chất đô thị, địa chất biển, tài nguyên nước dưới đất… ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhu cầu thực tiễn của đất nước.
Những năm gần đây, ngành địa chất Việt Nam đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại: viễn thám, ảnh vệ tinh, công nghệ UAV, đo phổ gamma hàng không, công nghệ địa chấn 3D, mô hình hóa số liệu địa chất… Đáng chú ý, việc chế tạo thành công thiết bị bay đo phổ gamma “made in Vietnam” là một dấu mốc, khẳng định khả năng làm chủ công nghệ tiên tiến.
Cùng với đó, ngành chú trọng công tác số hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu địa chất và khoáng sản quốc gia, hướng tới chuyển đổi số toàn diện. Đây là nền tảng để chia sẻ dữ liệu, phục vụ công tác quy hoạch, khai thác và quản lý tài nguyên hiệu quả, minh bạch.
Trải qua 80 năm, ngành Địa chất Việt Nam đã khẳng định vai trò “hậu phương thầm lặng” nhưng vô cùng to lớn. Bước vào giai đoạn mới, ngành tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức: cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, thiên tai địa chất, áp lực phát triển bền vững. Nhưng với truyền thống kiên cường, sáng tạo, cùng sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, ngành địa chất chắc chắn sẽ tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong chặng đường 80 năm, với những cống hiến to lớn, ngành Địa chất Việt Nam đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó mới nhất là Huân chương Lao động hạng Ba (năm 2025) dành cho Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam vì đã có thành tích xuất sắc đột xuất trong triển khai thực hiện Đề án "Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững kinh tế - xã hội".
Ngoài ra, ngành Địa chất Việt Nam đã vinh dự được nhận:
1 Huân chương sao vàng cho Ngành Địa chất Việt Nam (2010);
1 Huân chương Hồ Chí Minh cho Ngành Địa chất Việt Nam (2005);
12 Huân chương Độc lập hạng nhất, nhì, ba cho 6 tập thể và 6 cá nhân;
261 Huân chương Lao động hạng nhất, nhì, ba cho 261 tập thể và cá nhân;
9 Danh hiệu Anh hùng Lao động: cho 3 tập thể và 6 cá nhân;
1 Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang cho 01 cá nhân (liệt sỹ);
1 Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2005 tặng cho “Cụm công trình bản đồ địa chất Việt Nam và bản đồ khoáng sản Việt Nam tỷ lệ 1:500.000;
42 Cờ thi đua của Chính phủ;
84 Bằng khen của Thủ tướng cho các tổ chức và cá nhân.