“Nước chảy chỗ trũng” do không kiểm soát nâng nền
Vài tháng trước, người dân khu phố Ngô Quyền (Hà Đông, Hà Nội) đồng loạt kiến nghị lên chính quyền về việc nền đường mới cao hơn nền cũ trung bình 0,8 mét, có chỗ chênh tới 1,4 mét.
Theo người dân, dự án cải tạo đoạn đường Ngô Quyền từ số nhà 226 đến 298 (bờ phải kênh La Khê) thuộc Dự án đầu tư Cải thiện hệ thống tiêu nước khu vực phía Tây TP Hà Nội (Trạm bơm tiêu Yên Nghĩa) đã thi công các hạng mục: hệ thống cống thoát nước mặt, nước thải sinh hoạt, hào kỹ thuật... Tuy nhiên, cao độ mặt đường và hạ tầng kỹ thuật mới cao hơn nền đường cũ và nền nhà dân khiến nước không thể tiêu thoát, nhiều hộ bị chia cắt lối đi.

Quá trình thi công đường Ngô Quyền, người dân tại đây nhận thấy mặt đường và hạ tầng kỹ thuật cao hơn nền nhà từ 0,4 - hơn 1 m, khiến nước không thể tiêu thoát. Thậm chí, nhiều gia đình bị chia cắt với tuyến đường, nên phải bắc cầu để đi lại. Ảnh: Quang Phong.
Hay trước đó, năm 2016, dự án cải tạo đường Nguyễn Văn Huyên kéo dài ở Hà Nội đã khiến hàng chục hộ dân có nhà cao hơn mặt đường cả mét. Sau những kiến nghị, chính quyền, chủ đầu tư đã có điều chỉnh.
Theo TS. Chu Văn Hoàng, Bộ môn Kỹ thuật Hạ tầng Khoa Kỹ thuật Hạ tầng và Môi trường Đô thị (Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) nguyên nhân sâu xa dẫn đến ngập lụt ở Hà Nội thời gian vừa qua không chỉ do hạ tầng thoát nước chưa đồng bộ, mà còn bởi công tác quản lý cao độ nền và tổ chức thoát nước mặt chưa được chú trọng đúng mức.
Việt Nam là quốc gia có nhiều đô thị phát triển trên vùng đồng bằng - khu vực vốn thấp trũng, dễ bị tác động bởi mưa lớn, triều cường hay nước dâng do bão. Tại đồng bằng sông Hồng, hơn 70% diện tích có cao độ dưới 3 m so với mực nước biển, trong đó nhiều vùng thấp hơn 2m. Chính đặc điểm địa hình này khiến các đô thị trở nên nhạy cảm trước những biến động của khí hậu cực đoan.

Mặt đường đang làm nhiều vị trí cao bằng nửa cổng ngõ nhà dân, khiến việc đi lại trở nên khó khăn. Ảnh: Viên Minh.
Song, không chỉ thiên nhiên gây ra ngập úng. Tốc độ đô thị hóa quá nhanh đang làm biến đổi cấu trúc địa hình tự nhiên. Nhiều khu đô thị mới được san nền cao hơn khu dân cư cũ từ 0,5-1,5 m, khiến nước mưa từ nơi cao đổ xuống nơi thấp, tạo thành “rốn ngập” theo quy luật nước chảy chỗ trũng. Thêm vào đó, việc nâng cấp đường phố bằng cách phủ thêm lớp nhựa mà không bóc bỏ lớp cũ khiến mặt đường cao hơn nền nhà, dồn nước vào các khu dân cư.
Theo TS. Hoàng, ngập úng là hệ quả của cả yếu tố tự nhiên lẫn cách thức phát triển và quản lý đô thị. Nếu việc xác định cốt nền, kiểm soát san lấp và quy hoạch thoát nước không được thực hiện đồng bộ, đô thị sẽ tiếp tục đối mặt với nguy cơ ngập nặng hơn trong tương lai.
Kiểm soát cốt nền, xây dựng đô thị bền vững
Để thoát khỏi “vòng xoáy ngập úng”, TS. Hoàng cho rằng cần coi quản lý cao độ nền và thoát nước mặt là trụ cột trong quy hoạch hạ tầng đô thị. Đây là hai yếu tố gắn bó hữu cơ, quyết định khả năng thích ứng của thành phố trước biến đổi khí hậu.
Trước hết, phải quản lý cốt nền theo mốc giới quy hoạch đã được phê duyệt. Khi đồ án quy hoạch được thông qua, chính quyền cần cắm mốc ngoài thực địa, công khai cao độ san nền, trục tiêu thoát nước và ranh giới hồ điều hòa. Việc minh bạch thông tin này không chỉ giúp quản lý thống nhất, mà còn giúp người dân và nhà đầu tư xây dựng đúng quy chuẩn, tránh tình trạng chênh lệch cao độ giữa các khu vực liền kề.

Tình trạng ngập lụt trên diện rộng tại Sóc Sơn (Hà Nội) những ngày vừa qua. Ảnh: Lê Thắng.
Tiếp đó, cần khống chế diện tích san nền trong các dự án quy hoạch. Nhiều chủ đầu tư có xu hướng san nền toàn bộ diện tích, vô tình xóa bỏ những vùng trũng tự nhiên có chức năng điều tiết nước. Quy hoạch hiện đại cần xác định tỷ lệ diện tích được phép san nền hợp lý - chỉ san tại vị trí cần thiết cho công trình, giữ lại các khu vực thấp làm nơi chứa nước, tạo cảnh quan và cải thiện vi khí hậu.
Một giải pháp quan trọng khác là kiểm soát vật liệu mặt phủ và tăng khả năng thấm nước của đô thị. Quá trình bê tông hóa khiến hệ số thấm nước giảm, dòng chảy mặt tăng, dễ gây quá tải hệ thống cống. Việc sử dụng vật liệu thấm nước cho vỉa hè, sân công trình, bãi đỗ xe; tăng diện tích cây xanh, thảm cỏ, mặt nước… sẽ giúp nước mưa ngấm dần xuống đất. Nhiều nước tiên tiến đang áp dụng mô hình SUDS - hệ thống thoát nước bền vững tích hợp giải pháp kỹ thuật và sinh thái để kiểm soát dòng chảy tự nhiên, mà Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi.
Song song với đó, phải tách riêng hệ thống thoát nước mưa và nước thải. Việc dùng chung hai hệ thống khiến khả năng thoát nước giảm mạnh, đồng thời gây ô nhiễm môi trường khi mưa lớn. Tách riêng hệ thống sẽ giúp tiêu thoát nước hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện thu gom, tái sử dụng nước mưa sau xử lý. Ở những nơi có điều kiện, nên phát triển hồ điều hòa lộ thiên, vừa chứa nước, vừa tạo không gian xanh. So với hồ điều hòa ngầm, hồ lộ thiên tiết kiệm chi phí và mang lại giá trị sinh thái cao hơn.
Cuối cùng, công tác duy tu, nạo vét hệ thống thoát nước phải được duy trì thường xuyên. Nhiều cống rãnh bị tắc do bùn đất và rác thải, khiến năng lực tiêu thoát suy giảm. Việc bảo dưỡng định kỳ cần được xem là nhiệm vụ bắt buộc trong quản lý đô thị, tránh để ngập úng trở thành “bệnh mãn tính” của các thành phố lớn.
Số hóa dữ liệu cốt nền và thoát nước mặt bằng công nghệ GIS
Nếu các giải pháp kỹ thuật là “phần cứng” thì công tác quản lý và ứng dụng công nghệ chính là “phần mềm” quyết định hiệu quả chống ngập. Theo TS. Hoàng, Việt Nam cần đẩy mạnh số hóa dữ liệu cốt nền và thoát nước mặt bằng công nghệ GIS. Hệ thống này giúp chồng ghép các lớp bản đồ địa hình, cống ngầm, hồ điều hòa, khu vực ngập… để phân tích, dự báo nguy cơ và hỗ trợ ra quyết định trong quản lý đô thị.

Nguyên nhân ngập lụt đô thị không chỉ do hạ tầng thoát nước chưa đồng bộ, mà còn bởi công tác quản lý cao độ nền và tổ chức thoát nước mặt chưa được chú trọng đúng mức. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Khi kết hợp dữ liệu GIS với thông tin khí tượng thủy văn, đô thị có thể hình thành hệ thống cảnh báo ngập thông minh. Khi có mưa lớn, hệ thống sẽ tự động tính toán vùng có nguy cơ ngập, gửi cảnh báo đến chính quyền và người dân, đồng thời hỗ trợ điều tiết giao thông, cho phép học sinh học trực tuyến hay doanh nghiệp làm việc từ xa. Đây là bước chuyển quan trọng từ quản lý thủ công sang quản trị thông minh, thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu.
Cùng với đó, cần hoàn thiện hành lang pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến cốt nền, diện tích san nền, vật liệu thấm nước… Các quy định này phải được tích hợp vào quy trình cấp phép và nghiệm thu công trình, đảm bảo mọi dự án đô thị đều tuân thủ quy hoạch cao độ nền. Chỉ khi các yếu tố kỹ thuật và pháp lý được gắn kết, công tác quản lý ngập mới mang tính bền vững lâu dài.
Tuy nhiên, để đạt hiệu quả thực chất, các giải pháp phải được triển khai đồng bộ trong chiến lược phát triển đô thị thích ứng biến đổi khí hậu. Mỗi đô thị cần xác định rõ định hướng “sống cùng nước” chấp nhận và khai thác dòng nước như một phần của hệ sinh thái, thay vì cố gắng đẩy nước đi bằng mọi giá. Điều đó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành xây dựng, quy hoạch, tài nguyên môi trường và cộng đồng dân cư.