Chỉ trong hai tuần, Hà Nội liên tiếp ngập sâu sau mưa lớn. Nguyên nhân không chỉ do mưa cực đoan, mà còn do hệ thống tiêu thoát nước vĩ mô chưa hoàn thiện, “nghẽn” ở đầu ra. Phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với GS. TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để hiểu rõ thêm về vấn đề này.

GS. TS Đào Xuân Học, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, ngập úng đô thị do năng lực tiêu thoát nước ở cấp vĩ mô hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu. Ảnh: Minh Phúc.
Thưa Giáo sư, đâu là nguyên nhân cốt lõi khiến tình trạng ngập úng đô thị ngày càng trầm trọng?
Theo tôi, nguyên nhân cốt lõi không chỉ nằm ở mưa lớn hay biến đổi khí hậu, mà là do năng lực tiêu thoát nước ở cấp vĩ mô của Hà Nội hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu.
Về nguyên tắc, một đô thị được thiết kế hệ thống thoát nước chịu tải 50-70mm/giờ, nghĩa là nếu mưa 1 giờ với lượng mưa đó thì khi tạnh, đường phải hết ngập. Dù lượng mưa có gấp rưỡi hay gấp đôi, thời gian ngập cũng chỉ kéo dài tương ứng, chứ không thể ngập 1–2 ngày, thậm chí cả tuần như vừa rồi.
Điều này cho thấy, vấn đề không nằm ở tắc cục bộ nội thành mà ở chỗ nước trong đô thị không ra được sông lớn, tức là tắc ở đầu ra - nơi nhận nước. Hệ thống kênh dẫn, trạm bơm và các sông tiêu chính chưa hoàn thiện, khiến toàn bộ mạng lưới bị “nghẽn” ở tầng vĩ mô.
Ông từng nói “chống ngập đô thị là câu chuyện của cả hai hệ thống: tiêu và thoát”. Vậy, mấu chốt trong bài toán tiêu - thoát nước của Hà Nội hiện nay nằm ở đâu, thưa ông?
“Tiêu” là việc dẫn nước ra khỏi đô thị (vùng rộng lớn) đến các sông lớn; “thoát” là quá trình thu gom, dẫn nước ra khỏi khu dân cư, phố và đô thị qua hệ thống cống rãnh. Hiện nay, cả hai đều có vấn đề, nhưng mấu chốt nằm ở hệ thống tiêu.
Các sông nội thành như Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét vốn là trục tiêu chính dẫn nước về trạm bơm Yên Sở. Trạm bơm Yên Sở có công suất hiện tại mới đạt 90 m³/giây, trong khi theo quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt phải là 145 m³/giây và và khi xây dựng giai đoạn 3 của trạm bơm Yên Sở (55 m3/s) cần cải cả 4 con sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ Sét.
Các trạm bơm khác như Yên Nghĩa (120 m³/s) đã xong nhưng kênh dẫn chưa hoàn thiện và còn rất nhiều trạm bơm khác chưa triển khai như: Trạm bơm Liên Mạc (170 m³/s), trạm bơm Nam Thăng Long (9 m3/s), TB Đông Mỹ (35 m3/s), trạm bơm Đào Nguyên (25 m3/s), trạm bơm Yên Thái 54 m3/s.
Hệ thống thoát nước của Hà Nội cũng có vấn đề cần được nâng cấp, cải tạo và bổ sung. Tuy nhiên, Hà Nội đang “nghẽn” nhiều hơn ở khâu "tiêu" vì vậy cần tập trung giải quyết vấn đề này.
Từ năm 2009, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tiêu nước sông Nhuệ với công suất tới 504 m³/s, nhưng sau 15 năm vẫn chậm tiến độ. Theo ông, vướng mắc lớn nhất là gì?
Quy hoạch tiêu nước sông Nhuệ được phê duyệt từ năm 2009, đến nay mới chỉ hoàn thành một phần nhỏ. Vướng mắc lớn nhất là chủ trương đầu tư và giải phóng mặt bằng (như trục dẫn về Trạm bơm Yên Nghĩa không giải quyết được đã 3 năm nay).
Nếu chỉ cần thực hiện đúng quy hoạch 2009, hoàn thiện trạm Yên Nghĩa, Liên Mạc, Yên Sở và nâng cấp các sông tiêu chính thì Hà Nội cơ bản sẽ không còn ngập dài ngày.

Nước từ nội thành Hà Nội được các tổ máy của Trạm bơm Yên Sở bơm ra kênh thoát nước dẫn ra sông Hồng. Ảnh: Trọng Phú.
Có ý kiến cho rằng để Hà Nội hết ngập, cần “mở đường cho nước”. Nếu phải hy sinh lợi ích ngắn hạn, ông cho rằng Hà Nội nên chấp nhận điều gì để có hệ thống tiêu thoát nước bền vững?
Theo tôi, không nhất thiết phải “hy sinh” gì quá lớn, mà trước hết phải làm đúng quy hoạch đã được phê duyệt.
Nước muốn thoát phải có đường ra, mà Hà Nội vốn đã có nhiều sông, kênh tự nhiên chỉ cần nạo vét, khơi thông, hạ thấp đáy sông và kết nối về các trạm bơm chính. Ví dụ như đào sâu, mở rộng sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ Sét nước sẽ thoát tốt hơn về Yên Sở.
Còn việc xây thêm các hầm ngầm chứa nước như một số nơi đề xuất cũng là một giải pháp, nhưng sẽ rất tốn kém, không hiệu quả bằng tiêu nước qua các hệ thông sông kênh (cả hai giải pháp đều trạm bơm ra sông).
Nếu các trục tiêu chính như Nam Thăng Long, Yên Nghĩa, Liên Mạc... được hoàn thành, Hà Nội hoàn toàn có thể giải quyết ngập mà không cần phải “đánh đổi” quá nhiều về đất hay quy hoạch.

Người dân nỗ lực gia cố bờ bao, ngăn nước vào khu dân cư. Ảnh: Hùng Khang.
Ảnh hưởng của bão số 11 vừa qua khiến cả sông Cà Lồ và sông Cầu cùng dâng cao, đẩy nước tràn vào Sóc Sơn - nơi vốn được xem là vùng cao của Hà Nội. Trong bối cảnh đó, giải pháp nào giúp khu vực này tránh ngập hiệu quả hơn, thưa Giáo sư?
Trận mưa vừa rồi là trận cực đoan hiếm gặp, khi lượng mưa vượt xa thiết kế và trùng thời điểm các sông đều dâng cao. Với những trường hợp này, không thể “chống” hoàn toàn, mà phải có phương án phòng tránh linh hoạt và hệ thống dự phòng vận hành.
Về đê điều, Sông Cầu nằm ở trung du, có đặc thù khác với đồng bằng nên không thể dẽ để mở rộng sông, nên phía bờ tả sông có một số vùng chậm lũ (đê chỉ thiết kế chống lũ báo động cấp 2), nhưng một số địa phương đã đắp đê cao, kiên cố. Việc này từng làm mất vùng trữ lũ tự nhiên, khiến nước trong sông lên quá cao thoát nước không kịp, chảy ngược gây ngập các khu dân cư trũng thấp ở trong đê.
Tôi cho rằng, cần rà soát, gia cố đê theo hướng bảo đảm an toàn nhưng vẫn giữ dòng thoát tự nhiên, kết hợp hồ điều hòa, vùng trữ nước tạm để giảm áp lực lũ.
Trong các nhóm giải pháp mà ông từng đề xuất, ông cho rằng biện pháp nào khả thi nhất trong ngắn hạn, và biện pháp nào mang tính chiến lược lâu dài?
Theo tôi, trong ngắn hạn, Hà Nội cần tập trung khơi thông dòng chảy, vận hành tối đa công suất các trạm bơm hiện có, sớm hoàn thiện kênh dẫn vào trạm Yên Nghĩa, đẩy nhanh tiến độ trạm bơm Liên Mạc, trạm bơm Nam Thăng Long, trạm bơm Yên Sở giai đoạn 3, đồng thời tăng năng lực tiêu thoát cho các tuyến sông trục như Tô Lịch, Kim Ngưu, Sét, Lừ. Khi các tuyến tiêu chính được thông suốt, việc thoát nước trong nội đô sẽ hiệu quả hơn, giảm thời gian ngập và ngập diện rộng sau mưa lớn.
Về dài hạn, Hà Nội cần hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất về cấp - thoát - tiêu nước, đảm bảo quy hoạch hạ tầng thoát nước được tích hợp đồng bộ với quy hoạch đô thị và phát triển không gian ngầm, từng bước nâng cấp, sửa chữa và bổ sung hệ thống công rãnh trong nội đô để giải quyết tình trạng ngập cụ bộ.
Bên cạnh đó, cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị trong quản lý và vận hành hệ thống tiêu thoát, tránh chồng chéo, trùng lặp; từ đó xây dựng được một hệ thống quản lý nước thống nhất, linh hoạt và hiệu quả.
Trân trọng cảm ơn ông!
Theo Quy hoạch thoát nước Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Hà Nội có 3 vùng tiêu thoát nước chính là vùng tiêu Tả Đáy, Hữu Đáy và Bắc Hà Nội.
Cụ thể, vùng Tả Đáy thoát nước bằng bơm cưỡng bức bao gồm các lưu vực thoát nước đô thị là lưu vực sông Tô Lịch, Đông Mỹ, Tả Nhuệ, Hữu Nhuệ, Phú Xuyên và các thị trấn, diện tích khoảng 47.350 ha.
Vùng Hữu Đáy thoát nước tiêu tự chảy kết hợp với bơm tiêu đô thị và thủy lợi bao gồm các lưu vực thoát nước đô thị là lưu vực Sơn Tây, Xuân Mai, Hòa Lạc, Quốc Oai, Phúc Thọ, Chúc Sơn và các thị trấn, diện tích khoảng 31.310 ha.
Còn đối với vùng Bắc Hà Nội, kết hợp một phần thoát nước tự chảy với bơm tiêu đô thị và thủy lợi bao gồm các lưu vực thoát nước đô thị là lưu vực Long Biên, Gia Lâm, Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn, diện tích khoảng 46.740 ha.