Trong căn phòng làm việc giản dị, những chồng sách, tài liệu, bản đồ địa chất đã ngả màu thời gian được xếp ngay ngắn. Ở tuổi ngoài 80, GS.TS Trần Văn Trị vẫn say sưa khi nhắc về ngành địa chất - nơi ông đã dành cả cuộc đời cống hiến. Nhân dịp 80 năm thành lập ngành Địa chất Việt Nam, ông lật giở ký ức, kể lại những ngày đầu gian khó cũng như niềm tự hào khi được đồng hành cùng chặng đường trưởng thành của ngành.

GS.TS Trần Văn Trị (tóc bạc) nghiên cứu các đá Cambri vùng Bắc Hà, Lào Cai (năm 2008). Ảnh: Nguyễn Văn Quý.
Buổi đầu gian khó
GS kể, những năm 1950, khi đất nước còn chìm trong khói lửa chiến tranh, hơn 100 thanh niên mười tám đôi mươi đã được tuyển chọn vào lớp đào tạo ngắn hạn. Họ tỏa đi khắp miền núi, vùng biển, bắt đầu những chuyến khảo sát địa chất đầy hiểm nguy và thiếu thốn.
“Ngày ấy, chúng tôi làm việc trong điều kiện hết sức đơn sơ. Trang thiết bị nghèo nàn, kiến thức địa chất còn hạn chế. Phần lớn đều phải học trực tiếp từ các chuyên gia Liên Xô, bất đồng ngôn ngữ nên nhiều khi không hiểu nhau, chỉ còn cách “cầm tay chỉ việc”. Nhưng khát vọng xây dựng ngành khoa học Địa chất mới mẻ này đã giúp chúng tôi vượt qua tất cả”, GS Trần Văn Trị nhớ lại.
Ký ức vẫn in đậm trong ông là những chuyến đi thực địa đầy gian nan. Có lần, Đoàn Địa chất số 1 Lào Cai phải vượt qua dòng lũ dữ. Một đồng nghiệp yêu nghề đã bị cuốn đi trong tích tắc. “Mất mát ấy khiến tôi không bao giờ quên. Nghề Địa chất vinh quang nhưng cũng vô cùng khắc nghiệt”, ông trầm ngâm.
Những trang ký ức khoa học qua các mỏ khoáng sản tiêu biểu
Trải qua bao gian khổ, những nhà địa chất thế hệ đầu tiên của nước nhà đã được tham gia vào việc thành lập bản đồ địa chất Miền Bắc Việt Nam - từ tỉ lệ 1:500.000 (do TSKH Dovjkov A. E. chủ biên, 1965).
Tiếp đến, những nhà địa chất Việt Nam bắt đầu triển khai đo vẽ bản đồ địa chất, khoáng sản ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam, với tỉ lệ 1:200.000 và 1:50.000. Đây là nền tảng khoa học vững chắc để tiếp tục tạo nên các bản đồ địa chất, khoáng sản, sinh khoáng tỉ lệ 1:500.000, 1:1.000.000 Việt Nam phần đất liền và những năm gần đây nghiên cứu cả vùng biển rộng lớn. Những kết quả ấy đã làm cơ sở để Việt Nam từng bước làm chủ công tác nghiên cứu, điều tra, thăm dò và khai thác tài nguyên khoáng sản.

GS.TS Trần Văn Trị hướng dẫn khảo sát đá núi lửa đảo Hải Tặc, Hà Tiên (năm 2012). Ảnh: Nguyễn Quang Bô.
Từ những khảo sát ấy, nhiều mỏ khoáng sản lớn đã đi vào lịch sử ngành Địa chất Việt Nam.
Đầu tiên là apatit Lào Cai - một trong những phát hiện sớm và quan trọng nhất. Apatit là nguyên liệu chủ lực để sản xuất phân bón, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. “Chúng tôi đã có những tháng ngày thanh xuân bám trụ nơi núi rừng Lào Cai, từng nhát búa, từng trang ghi chép đều chan chứa niềm tin và hy vọng. Nhiều đồng nghiệp của tôi đã tham gia vào các đoàn thăm dò than ở Quảng Ninh, thiếc ở Cao Bằng, sắt ở Thái Nguyên…”, GS kể.
Tiếp đó là tụ khoáng sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh). Bằng phương pháp địa vật lý, địa hóa hiện đại lúc bấy giờ, các nhà địa chất phát hiện dưới lớp đất ven biển tồn tại các thể quặng sắt khổng lồ, trên 500 triệu tấn, lớn nhất Đông Nam Á, cũng như tụ khoáng uranium ở mỏ than Nông Sơn (Quảng Nam, Đà Nẵng). Đây là một trong những tụ khoáng giàu tiềm năng, mở ra cơ hội phát triển công nghiệp luyện kim và năng lượng của nước nhà.
Kế đến là đất hiếm Nậm Xe (Lai Châu). Từ một mẫu đá cất trong bảo tàng địa chất, các chuyên gia Liên Xô, Việt Nam lần tìm dấu vết để rồi phát hiện ra cả một vùng đất hiếm trù phú. “Ngày ấy ít ai nghĩ đất hiếm sẽ trở thành nguồn tài nguyên chiến lược của thế giới. Việc phát hiện mỏ đất hiếm Nậm Xe khiến chúng tôi càng thấm thía trách nhiệm của ngành Địa chất đối với tương lai đất nước”, ông chia sẻ.
Một phát hiện nữa là bauxit Tây Nguyên. Những năm tháng lăn lộn trên vùng đất đỏ bazan Đắk Nông, Lâm Đồng, đội ngũ địa chất đã khẳng định tài nguyên bauxit vào loại lớn thế giới. Đây là cơ sở để Việt Nam hướng tới phát triển công nghiệp nhôm trong tương lai.
Dầu khí ngoài khơi cũng ghi dấu một chặng đường đặc biệt. GS Trần Văn Trị kể lại: “Từ những năm 1958, 1959, chúng tôi được trực tiếp tham gia cùng với các chuyên gia Liên Xô điều tra dầu khí ở miền Bắc Việt Nam. Trên cơ sở đó, ngày 27/11/1961, tại Thái Bình (nay là Hưng Yên), Đoàn Địa chất Dầu khí số 36 chính thức ra đời, mở đầu cho hành trình dài đầy thử thách, sau khi thống nhất nước nhà, công tác thăm dò, khai thác đang vươn ra biển cả rộng lớn”.
Từ những bước đi đầu tiên trong công tác điều tra thềm lục địa đến quá trình hợp tác quốc tế với Liên Xô và nhiều nước tiên tiến khác, ngành Dầu khí đã dần khẳng định vị thế, trở thành một trong những ngành Kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Mỗi tài nguyên địa chất được phát hiện không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là thành quả kết tinh từ mồ hôi, công sức, thậm chí cả xương máu của nhiều thế hệ địa chất.
Tự hào nhìn lại 80 năm
Đến nay, Việt Nam đã có hệ thống bản đồ địa chất phủ kín gần như toàn quốc, hàng nghìn công trình nghiên cứu khoa học về Trái đất được xuất bản, cũng như các báo cáo thăm dò được lưu giữ trong Trung tâm Thông tin, Lưu trữ và Bảo tàng Địa chất.
Trong số đó, tiêu biểu nhất là công trình Bản đồ địa chất, Bản đồ khoáng sản Việt Nam tỉ lệ 1:500.000 (do ông Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao, Lê Văn Trảo đồng chủ biên), được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ năm 2005.
“Ngoài ra, chúng tôi cũng đã cùng nhau hợp tác với các nhà Khoa học Địa chất, thuộc các trường, các viện liên quan để hoàn thành một số bản đồ địa chất, khoáng sản tỉ lệ 1:1.000.000 cũng như những sách chuyên khảo kèm theo (Trần Văn Trị chủ biên: 1973, 2000, 2023) đã được tặng thưởng Huy chương Vàng, giải Vàng sách hay. Những kết quả ấy là niềm vinh dự lớn lao của đời mình. Bởi sau những công trình khoa học, những con số, là dấu chân của biết bao thế hệ nhà địa chất trên khắp miền núi rừng, sông biển của Tổ quốc”, GS chia sẻ.
Với ông, ngành địa chất không chỉ là nghề, mà còn là câu chuyện về con người - những người đã sống, đã hy sinh lặng lẽ để góp phần làm giàu cho đất nước.
Nhìn về tương lai, GS Trần Văn Trị cho rằng thách thức lớn nhất của ngành hiện nay là làm sao vừa khai thác hợp lý tài nguyên, vừa bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
Ông nhấn mạnh: “Thế hệ trẻ cần phải được đào tạo bài bản, không ngừng học hỏi công nghệ mới như AI, viễn thám, địa vật lý, địa hóa, cũng như các phương pháp phân tích định lượng hiện đại. Nhưng dù sao con người vẫn là yếu tố quyết định - phải gắn liền với trang thiết bị và tư duy toàn cầu hóa. Địa chất không chỉ để khai thác, mà còn để dự báo tai biến, bảo vệ môi trường và phục vụ phát triển bền vững”.

GS.TS Trần Văn Trị giới thiệu với Đoàn Địa chất Việt Nam - Malaysia về vùng đá granit ở Vĩnh Hy, Ninh Thuận (năm 2011). Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn.
Ngồi giữa căn phòng chất đầy bản đồ và kỷ vật, GS Trần Văn Trị lặng lẽ nhìn lại cuộc đời. Ông nói, nếu được chọn lại, ông vẫn sẽ đi con đường này - con đường gắn bó với núi rừng, với lòng đất, với những phát hiện thầm lặng mà to lớn.
“Tám mươi năm ngành địa chất, cũng là gần trọn một đời người tôi gắn bó. Ngành Địa chất đã trưởng thành cùng đất nước, và tôi tin ngọn lửa ấy sẽ tiếp tục cháy sáng trong tim những thế hệ trẻ hôm nay”, ông khẽ cười, ánh mắt rạng ngời niềm tin.
GS.TS Trần Văn Trị từng giữ cương vị Phó Viện trưởng Viện Địa chất và Khoáng sản, Phó Cục trưởng Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Địa chất, Ủy viên Ban Biên tập các Tạp chí Khoa học Trái đất Đông Nam Á, Châu Á và Indonesia, đồng thời là Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia IGCP (Chương trình Khoa học Địa chất Quốc tế). Với những đóng góp bền bỉ cho ngành địa chất, ông được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Ba (năm 1988) và hạng Hai (năm 2008). Ông cũng là đồng tác giả công trình “Atlas Quốc gia Việt Nam” (GS Nguyễn Văn Chiển chủ biên), được vinh danh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ năm 2005.