Quỹ quá tải, chất thải còn nguyên
Chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường 2020, bắt đầu triển khai từ năm 2022, nhằm buộc doanh nghiệp phải có trách nhiệm với sản phẩm sau tiêu dùng thông qua hoạt động tái chế, xử lý chất thải hoặc đóng góp tài chính tương ứng. Tuy nhiên, sau hơn 2 năm triển khai, việc hiểu sai bản chất EPR tạo nên nhiều nghịch lý.
Tại toạ đàm “Thực hiện EPR: Gia tăng hiệu quả công tác bảo vệ môi trường lĩnh vực công nghiệp” do Tạp chí Công Thương tổ chức, nhiều chuyên gia nhận định, doanh nghiệp có xu hướng chọn cách “đóng tiền để xong”, thay vì trực tiếp tổ chức hoặc thuê đơn vị tái chế.

Đa số doanh nghiệp chọn cách đóng tiền, thay vì tổ chức tái chế. Ảnh minh họa.
“Doanh nghiệp lo ngại rủi ro, sợ ảnh hưởng hình ảnh nếu quá trình tái chế không đạt chuẩn, nên chọn giải pháp an toàn là nộp tiền”, ông Nguyễn Thành Yên, Phó trưởng Phòng Chính sách pháp chế, Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết. Một số thậm chí sẵn sàng chi hàng tỷ đồng chỉ để chấp nhận nộp phạt thay vì tổ chức tái chế.
Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ. Đại diện Total Energies từng tuyên bố sẵn sàng nộp 2 tỷ đồng nếu không đạt được cam kết, bởi “thực hiện không đúng sẽ ảnh hưởng thương hiệu nhiều hơn là mất tiền”.
Về bản chất, EPR là công cụ thúc đẩy tái chế, tiết kiệm tài nguyên và chuyển dịch sang kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, việc dồn lựa chọn vào phương án nộp tiền đã dẫn đến hệ quả ngược, là quỹ môi trường có thể bị quá tải, trong khi chất thải trên thực tế vẫn không được xử lý.
“Lâu dài, các doanh nghiệp cần thực hiện tái chế thực chất chứ không thể mãi đóng tiền được. Đóng tiền là để ‘chạy trách nhiệm’, còn rác thải vẫn nằm đó”, ông Phạm Sinh Thành, Phòng Môi trường Công Thương, Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường Công nghiệp (Bộ Công Thương) nhận định.
Thực tế, quỹ EPR đã thu được hàng trăm tỷ đồng trong giai đoạn đầu nhưng đến nay các đơn vị tái chế - vốn là mắt xích chủ chốt - chưa nhận được bất kỳ khoản hỗ trợ nào. “Quy chế chi tiêu chưa có, doanh nghiệp tái chế vẫn đang chờ đợi”, ông Thành nêu điểm nghẽn.
Thêm vào đó, các rào cản về thủ tục, hiểu lầm trong thực hiện cũng khiến thị trường tái chế khó vận hành trơn tru. Nhiều doanh nghiệp cho rằng chỉ các đơn vị được công bố trên Cổng thông tin EPR của Bộ Nông nghiệp và Môi trường mới được phép nhận tái chế, dẫn đến hạn chế trong lựa chọn đối tác.
“Hiểu như vậy là không đúng. Tất cả đơn vị có giấy phép môi trường, có chức năng phù hợp đều được phép ký kết và tham gia EPR”, ông Nguyễn Thành Yên nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Thành Yên, Phó trưởng Phòng Chính sách pháp chế, Cục Môi trường phát biểu tại hội thảo. Ảnh: VITR.
Thiếu cơ chế khuyến khích cho doanh nghiệp
Một thực tế khác là hệ thống thu gom, tái chế trong nước hiện vẫn manh mún, thiếu chính sách kết nối giữa khu vực chính thức và phi chính thức. Theo ông Lương Chí Hiếu, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển (Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam), mức ký quỹ với nguyên liệu phế liệu nhập khẩu hiện ở mức rất cao (15-20%), trong khi chưa từng có doanh nghiệp giấy nào vi phạm.
“Đây là áp lực tài chính không nhỏ, khiến nhiều doanh nghiệp ngại nhập khẩu. Trong khi, hệ thống thu gom nội địa lại yếu, chưa có chính sách hỗ trợ cho những người thu gom nhỏ lẻ, vốn chiếm tỷ lệ lớn”, ông Hiếu cho biết.
Ông cũng cho rằng để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, cần có các cơ chế công nhận, hỗ trợ, và liên kết hiệu quả hơn giữa doanh nghiệp sản xuất - đơn vị tái chế - cộng đồng thu gom. Nếu không, EPR sẽ chỉ là "một khái niệm" trên giấy.
Chia sẻ trăn trở này, ông Nguyễn Thành Yên thẳng thắn nhìn nhận: “Hiện mô hình là Nhà nước nhận tiền và làm thay doanh nghiệp. Nhưng điều này khó bền vững”. Theo ông Yên, trong tương lai, cần áp dụng mô hình ký quỹ hoàn lại, tức doanh nghiệp nộp tiền trước, nhưng sẽ được giải ngân tương ứng với khối lượng tái chế đã thực hiện, có kiểm chứng.
“Lúc đó, tái chế sẽ không còn là gánh nặng mà là cơ hội để doanh nghiệp nhận hỗ trợ và tăng tính cạnh tranh”, ông Yên bày tỏ.
Dù còn nhiều vướng mắc, các chuyên gia đều thống nhất, rằng EPR là xu thế bắt buộc trong bối cảnh toàn cầu thúc đẩy sản xuất bền vững. Nếu thực hiện nghiêm túc, đây là cơ hội để doanh nghiệp trong nước cải thiện hình ảnh, tiếp cận tín dụng xanh, và mở rộng thị trường sang các khu vực yêu cầu cao như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản.
“EPR không còn là chuyện bàn làm hay không nữa. Bây giờ, chúng ta không bàn, mà phải làm”, ông Yên khẳng định.