Nhiều cơ hội
Ông Phạm Hồng Lượng, Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, Nghệ An tỉnh có diện tích rừng lớn nhất cả nước và sở hữu Khu Dự trữ sinh quyển thế giới rộng hơn một triệu ha, Nghệ An đang đứng trước cơ hội đặc biệt để phát triển thị trường tín chỉ các-bon rừng.
Nhiều năm qua, Nghệ An luôn là địa phương có đóng góp quan trọng trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Ảnh: Trường Giang.
Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và đang đẩy mạnh xây dựng thị trường các-bon trong nước, việc lượng hóa giá trị hấp thụ các-bon của rừng không chỉ tạo nguồn lực tài chính cho địa phương mà còn góp phần trực tiếp vào mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia. Những kết quả bước đầu từ Thỏa thuận Chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) cho thấy tiềm năng lớn, song đi cùng là không ít thách thức về thể chế, kỹ thuật và nhận thức.
Trong nhiều năm qua, Nghệ An luôn là địa phương có đóng góp quan trọng trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Tỷ lệ che phủ đạt hơn 59%, diện tích rừng tự nhiên lớn, hệ sinh thái đặc hữu phong phú đã tạo nền tảng quan trọng để tỉnh tham gia ERPA cùng năm tỉnh Bắc Trung Bộ. Giai đoạn 2018–2024, khu vực này đã giảm phát thải 10,3 triệu tấn CO₂, được Ngân hàng Thế giới chi trả 51,5 triệu USD; riêng Nghệ An là tỉnh có diện tích được thụ hưởng lớn nhất với hơn 790 nghìn ha. Tỉnh đã giải ngân cho gần 28 nghìn chủ rừng, gồm hộ gia đình, cộng đồng, tổ chức và chính quyền cấp xã. Đây là nguồn lực đáng kể hỗ trợ công tác bảo vệ rừng và tạo thêm thu nhập cho người dân.
Tuy nhiên, khoản chi trả từ ERPA mới chỉ là bước đầu. Thị trường tín chỉ các-bon rừng đặc biệt là thị trường tự nguyện quốc tế với quy mô hàng tỷ USD mỗi năm vẫn còn hầu như bỏ ngỏ tại Nghệ An. Mặc dù đã có một số tổ chức, doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước tiến hành khảo sát, tìm hiểu cơ hội phát triển dự án các-bon theo các tiêu chuẩn quốc tế như Verra (VCS) hoặc Gold Standard, nhưng chưa có dự án nào đi vào triển khai thực tế. Nguyên nhân chính là do các rào cản về pháp lý, đặc biệt là sự thiếu rõ ràng về quyền sở hữu các-bon, cùng với chi phí đầu tư ban đầu cao.
Dù vậy, tiềm năng phát triển thị trường tín chỉ các-bon rừng của Nghệ An được đánh giá là rất lớn. Với gần một triệu ha rừng, trong đó có diện tích rộng thuộc Khu Dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An khu vực có giá trị hấp thụ các-bon và đa dạng sinh học đặc biệt cao, tỉnh có khả năng cung cấp nguồn tín chỉ chất lượng tốt, phù hợp xu hướng thị trường quốc tế đang ưu tiên tín chỉ “đa lợi ích”. Song song đó, khung pháp lý quốc gia về thị trường các-bon đang hoàn thiện nhanh chóng. Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Nghị định số 119/2025/NĐ-CP đã hình thành nền tảng quản lý phát thải và phát triển thị trường các-bon trong nước; sàn giao dịch các-bon sẽ được thí điểm từ năm 2028 và vận hành chính thức từ 2029. Khi các doanh nghiệp trong nước phải thực hiện nghĩa vụ giảm phát thải, nhu cầu tín chỉ các-bon sẽ tăng mạnh, mở ra thị trường ổn định cho các địa phương có rừng, trong đó Nghệ An là một trong những địa phương có lợi thế nhất.
Cùng với đó, Nghệ An cũng có kinh nghiệm thực tiễn từ việc triển khai ERPA, một trong những chương trình REDD+ quy mô lớn nhất cả nước. Thông qua chương trình, hệ thống MRV, lực lượng cán bộ kỹ thuật, quy trình chia sẻ lợi ích và cơ chế phối hợp giữa các cấp đã bước đầu được thiết lập. Đây là lợi thế quan trọng khi tỉnh bước vào giai đoạn phát triển thị trường các-bon theo cơ chế mới, đòi hỏi sự chuẩn hóa và minh bạch cao hơn.
Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả các cơ hội, Nghệ An cần giải quyết đồng bộ một số thách thức trọng tâm. Trước hết là vấn đề quyền các-bon câu hỏi “tín chỉ thuộc về ai”, nhất là đối với rừng tự nhiên, rừng phòng hộ và diện tích do cộng đồng quản lý. Bên cạnh đó, năng lực MRV còn hạn chế khiến nhiều địa phương cấp cơ sở khó đáp ứng yêu cầu khi xây dựng dự án độc lập. Dữ liệu rừng ở một số nơi chưa đồng nhất, chưa được cập nhật thường xuyên, ảnh hưởng đến tính chính xác khi tính toán lượng các-bon hấp thụ hoặc giảm phát thải.
Ngoài ra, nhận thức của một bộ phận chủ rừng còn chưa đầy đủ. Nhiều người dân vẫn xem bảo vệ rừng là nghĩa vụ chứ chưa thấy rõ lợi ích kinh tế dài hạn. Nhiều người chưa hiểu rõ bản chất, quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia, có thể dẫn đến tâm lý hoài nghi, không hợp tác hiệu quả hoặc thậm chí bị các bên trung gian lợi dụng…
Cần xác định phát triển thị trường các-bon rừng là một nhiệm vụ chiến lược, một động lực tăng trưởng
Để vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội, ông Phạm Hồng Lượng cho rằng, Nghệ An cần một chiến lược tổng thể và một lộ trình phát triển bài bản, có hệ thống với các nhóm giải pháp đồng bộ đến năm 2035 theo ba giai đoạn: giai đoạn thí điểm đến năm 2028 tập trung hoàn thiện cơ chế, thử nghiệm một số dự án chuẩn quốc tế tại vùng rừng có điều kiện; giai đoạn 2029–2030 kết nối với sàn giao dịch các-bon quốc gia và mở rộng quy mô dự án; giai đoạn từ 2031 đến 2035 hướng tới hình thành thị trường các-bon cấp tỉnh, thu hút đầu tư tư nhân và tạo chuỗi giá trị gắn với sinh kế, du lịch sinh thái và sản phẩm lâm nghiệp.
Hành trình phát triển thị trường các-bon rừng tại Nghệ An là một chặng đường dài, đòi hỏi sự kiên trì, tư duy đổi mới và sự hợp tác chặt chẽ. Ảnh: Đình Tiệp.
Theo đó, đối với Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nghệ An cần có quyết tâm chính trị cao nhất, xác định phát triển thị trường các-bon rừng là một nhiệm vụ chiến lược, một động lực tăng trưởng mới của tỉnh. Chỉ đạo quyết liệt việc xây dựng và sớm ban hành “Đề án Phát triển thị trường các-bon rừng tỉnh Nghệ An” với lộ trình, nguồn lực và phân công trách nhiệm rõ ràng.
Đồng thời, chủ động đề xuất với Trung ương và cho phép thí điểm các cơ chế đặc thù trên địa bàn tỉnh để giải quyết bài toán “quyền các-bon” và “chia sẻ lợi ích” trong thời gian chờ đợi khung thể chế, các văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia được hoàn thiện.
Đối với các cơ quan chuyên môn là Sở Nông nghiệp và Môi trường, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng phải đóng vai trò “nhạc trưởng”, chủ động tham mưu, kết nối các bên liên quan như viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và cộng đồng địa phương. Ưu tiên đầu tư cho nâng cao năng lực con người và xây dựng hạ tầng dữ liệu số về rừng, xem đây là khoản đầu tư chiến lược cho tương lai. Tích cực tìm kiếm, vận động các nguồn hỗ trợ kỹ thuật và tài chính từ các đối tác phát triển để triển khai các dự án thí điểm.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Tài chính cần đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, ban hành các văn bản dưới luật để làm rõ quyền sở hữu các-bon và xây dựng một khung chính sách chia sẻ lợi ích quốc gia công bằng, áp dụng chung cho mọi dự án.
Đặc biệt, sớm hoàn thiện và vận hành sàn giao dịch các-bon, Hệ thống đăng ký tín chỉ các-bon quốc gia để tạo một sân chơi minh bạch, có thể kết nối với thị trường quốc tế và tránh rủi ro tính trùng.
Phó Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm Phạm Hồng Lượng cho rằng, hành trình phát triển thị trường các-bon rừng tại Nghệ An là một chặng đường dài, đòi hỏi sự kiên trì, tư duy đổi mới và sự hợp tác chặt chẽ. Nhưng với những bước đi đúng đắn và quyết liệt ngay từ bây giờ, Nghệ An hoàn toàn có thể trở thành địa phương tiên phong, hình mẫu của cả nước trong việc biến “vàng xanh” thành động lực phát triển kinh tế xanh, giúp tỉnh hướng tới tương lai phát triển bền vững.























