| Hotline: 0983.970.780

Khai thác tiềm năng tín chỉ các-bon: [Bài 1] Hướng tới nền kinh tế xanh

Thứ Tư 03/12/2025 , 13:33 (GMT+7)

Thanh Hóa Thanh Hóa phát triển tín chỉ các-bon từ rừng và nông nghiệp, tăng thu nhập bền vững, nâng cao sinh kế và hướng tới nền kinh tế xanh, giảm phát thải hiệu quả.

Thị trường tín chỉ các-bon nổi lên như một công cụ kinh tế hiệu quả, không chỉ mang lại nguồn thu cho địa phương mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế xanh tuần hoàn. Với diện tích rừng rộng lớn và hệ sinh thái phong phú, Thanh Hóa đang trở thành một trong những địa phương tiên phong khai thác tiềm năng này.

Tiềm năng lớn từ rừng và nông nghiệp

Thanh Hóa sở hữu 647.000 ha rừng, trong đó có 393.361 ha rừng tự nhiên và 254.076 ha rừng trồng. Độ che phủ rừng năm 2024 đạt 53,91%, cao hơn mức trung bình toàn quốc hơn 11%. Đây chính là “nguồn tài nguyên các-bon” quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển nguồn cung tín chỉ các-bon rừng, hướng tới tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn.

Thanh Hóa có nguồn tài nguyên rừng phong phú, tiềm năng khai thác nguồn bán tín chỉ các-bon. Ảnh: Trịnh Tâm.

Thanh Hóa có nguồn tài nguyên rừng phong phú, tiềm năng khai thác nguồn bán tín chỉ các-bon. Ảnh: Trịnh Tâm.

Không chỉ có rừng, Thanh Hóa còn có hàng trăm nghìn ha đất nông nghiệp, trong đó 6.000 ha lúa đã được đăng ký thí điểm tạo tín chỉ các-bon thông qua phương pháp tưới ướt khô xen kẽ (AWD). Về định hướng tương lai, Thanh Hóa xác định đẩy mạnh các mô hình nông nghiệp giảm phát thải: 100.000 ha lúa áp dụng tưới AWD, 15.000 ha mía và vùng nguyên liệu Lam Sơn triển khai theo chuẩn quốc tế. Đồng thời, tỉnh tiếp tục tăng khả năng hấp thụ các-bon trên 647.000 ha rừng, mở rộng trồng rừng, nâng độ che phủ và cải thiện sinh kế cho người dân. giảm trung bình 1,8 tấn CO2e/ha/năm. Việc phát triển nông nghiệp các-bon thấp không chỉ góp phần giảm phát thải mà còn nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp.

Thí điểm tạo tín chỉ các-bon từ rừng

Thị trường các-bon ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở Nghị định 107/2022/NĐ-CP, cho phép triển khai cơ chế chi trả giảm phát thải (ERPA). Ngay sau khi nghị định được ban hành, UBND tỉnh Thanh Hóa đã chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường cùng các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch triển khai ERPA bài bản, dù gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh và bối cảnh kinh tế suy giảm.

Các hoạt động triển khai được thực hiện đồng bộ, cụ thể rà soát diện tích rừng, xác định đối tượng hưởng lợi, mở tài khoản nhận tiền, sàng lọc an toàn môi trường - xã hội, tổ chức tập huấn và hướng dẫn các biện pháp lâm sinh. Tất cả nhằm đảm bảo minh bạch, công khai và đúng quy định.

Nguồn thu từ bán tín chỉ carbon là động lực để giữ rừng tốt hơn. Ảnh: Trịnh Tâm.

Nguồn thu từ bán tín chỉ carbon là động lực để giữ rừng tốt hơn. Ảnh: Trịnh Tâm.

Kết quả sau ba năm triển khai đã ghi nhận hiệu quả rõ rệt. Toàn tỉnh có 365.758 ha rừng tự nhiên đủ điều kiện chi trả ERPA, với hơn 25.000 hộ gia đình, 264 cộng đồng, 38 tổ chức và 39 xã tạm giao quản lý rừng là đối tượng hưởng lợi. Đến tháng 11/2025, Thanh Hóa đã tiếp nhận 199,3 tỷ đồng, dự kiến sắp tới sẽ nhận thêm 20,5 tỷ đồng từ 1 triệu tấn CO₂ bổ sung chuyển nhượng cho Ngân hàng Thế giới. Nguồn thu từ tín chỉ các-bon được sử dụng hiệu quả cho bảo vệ rừng, cải thiện sinh kế và hỗ trợ người dân miền núi. Nhờ đó, đời sống người dân làm nghề rừng được cải thiện đáng kể, ý thức cộng đồng về bảo vệ rừng được nâng cao.

Ông Nguyễn Văn Tuấn, Trưởng phòng quản lý Quỹ Bảo vệ, phát triển rừng (Ban quản lý Quỹ bảo vệ, phát triển rừng, môi trường và Phòng, chống thiên tai Thanh Hoá) chia sẻ: Nguồn thu từ tín chỉ các-bon đã tạo động lực lớn cho cộng đồng tham gia bảo vệ rừng. Khi người dân nhìn thấy lợi ích trực tiếp từ rừng, họ chủ động bảo vệ, phục hồi rừng tự nhiên và trồng mới cây, đồng thời áp dụng các biện pháp quản lý bền vững. Đây là bước tiến quan trọng để phát triển kinh tế xanh tại Thanh Hóa.”

Dù đạt được nhiều kết quả, Thanh Hóa vẫn còn đối mặt với một số thách thức. Chính sách ERPA hiện đang ở giai đoạn thí điểm, thời gian triển khai ngắn (kết thúc năm 2025) khiến một số chủ rừng gặp khó khăn trong lập kế hoạch và thực hiện các biện pháp lâm sinh theo chu kỳ dài.

Một số quy định của Nghị định 107/2022/NĐ-CP chưa thực sự đồng bộ và chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn tại cơ sở. Sau sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã, một số địa phương còn thiếu kinh nghiệm trong quản lý tài chính ERPA, dẫn đến giải ngân chậm. Mức chi trả từ 130.000–158.000 đồng/ha/năm chưa tạo động lực mạnh, khiến một số hộ dân chưa tích cực tham gia. Nhiều hộ gia đình chưa nhận chi trả do thiếu thông tin hoặc khó khăn trong tiếp cận.

Người dân mong muốn nâng mức chi trả tiền bán tín chỉ các-bon để tiếp thêm động lực giữ rừng. Ảnh: Thanh Tâm.

Người dân mong muốn nâng mức chi trả tiền bán tín chỉ các-bon để tiếp thêm động lực giữ rừng. Ảnh: Thanh Tâm.

Một vấn đề quan trọng khác là thiếu dữ liệu đo đạc, kiểm đếm phát thải, khiến tỉnh chưa thể xác định hạn ngạch các-bon hoặc tham gia sâu hơn vào các cơ chế mua bán tín chỉ các-bon trong nước. Thêm vào đó, nhiều diện tích rừng đã được bảo vệ theo các chương trình Nhà nước, không thể sử dụng đồng thời với nguồn chi trả ERPA, gây khó khăn cho các chủ rừng tổ chức.

Hướng đi bền vững

Để khai thác tiềm năng các-bon rừng, Thanh Hóa cần triển khai đồng bộ một số giải pháp.

Trong đó ưu tiên hàng đầu là xây dựng tiêu chuẩn, quy trình và cơ chế vận hành sàn giao dịch các-bon quốc gia. Các bộ ngành cần thống nhất quy định, hướng dẫn triển khai để địa phương dễ dàng tham gia thị trường.

Áp dụng công nghệ viễn thám, GIS, đo đạc hiện đại và kiểm chứng độc lập để xác định chính xác trữ lượng các-bon và tiềm năng giảm phát thải.

Cán bộ kiểm lâm, chủ rừng và doanh nghiệp cần nắm vững quy trình tạo tín chỉ, lập dự án, giám sát và giao dịch. Thiết lập quy trình kiểm tra, giám sát xuyên suốt từ khâu lập dự án đến chi trả, đảm bảo lợi ích đúng đối tượng.

Tiềm năng từ rừng ở Thanh Hóa còn nhiều nhưng cần có cơ chế, chính sách linh hoạt hơn. Ảnh: Thanh Tâm.

Tiềm năng từ rừng ở Thanh Hóa còn nhiều nhưng cần có cơ chế, chính sách linh hoạt hơn. Ảnh: Thanh Tâm.

Đặc biệt cần hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ như tham khảo kinh nghiệm từ WB, JICA, FAO và các quốc gia phát triển thị trường các-bon để nâng cao năng lực và mở rộng thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó xây dựng mô hình mẫu hỗ trợ doanh nghiệp và chủ rừng hiểu cách tạo tín chỉ, đăng ký và đưa ra thị trường, thúc đẩy tham gia chuỗi giá trị các-bon trong nông lâm nghiệp.

Với những kết quả ban đầu, Thanh Hóa đã chứng minh rằng tín chỉ các-bon không chỉ là lý thuyết mà hoàn toàn có thể tạo ra giá trị thực tế từ rừng. Tuy nhiên, pháp lý chưa hoàn chỉnh, dữ liệu đo đạc còn thiếu, chi trả cho người dân chưa đủ hấp dẫn và việc quản lý, giám sát vẫn đòi hỏi nguồn lực lớn.

“Chúng ta đã có cơ sở để phát triển thị trường các-bon, nhưng cần kiên nhẫn, đồng bộ chính sách và sự tham gia chủ động từ cộng đồng”, ông Nguyễn Đức Vụ, Phó phòng Quản lý rừng và Bảo tồn đa dạng sinh học, Chi cục Kiểm lâm Thanh Hóa nhấn mạnh.

Tuy vậy, tỉnh Thanh Hóa đã rút ra nhiều bài học quan trọng. Sự chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh, phối hợp chặt chẽ giữa các sở ngành và Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng là yếu tố quyết định thành công. Công tác rà soát diện tích rừng và đối tượng hưởng lợi phải chính xác, công khai và minh bạch. Tuyên truyền, đào tạo, nâng cao nhận thức cho cán bộ thôn bản và người dân đóng vai trò then chốt, giúp họ hiểu rõ lợi ích từ tín chỉ các-bon và trách nhiệm bảo vệ rừng. Kiểm tra, giám sát thường xuyên cũng giúp hạn chế sai sót và xử lý kịp thời các vướng mắc phát sinh.

15.000 ha mía và vùng nguyên liệu Lam Sơn đủ điều kiện bán tín chỉ các-bon . Ảnh: Anh Toản.

15.000 ha mía và vùng nguyên liệu Lam Sơn đủ điều kiện bán tín chỉ các-bon . Ảnh: Anh Toản.

Ông Nguyễn Đức Vụ, Phó phòng Quản lý rừng và Bảo tồn đa dạng sinh học, Chi cục Kiểm lâm Thanh Hóa, nhấn mạnh: “Tín chỉ các-bon không chỉ mang lại nguồn thu tài chính mà còn là công cụ quản lý rừng bền vững. Khi người dân thấy lợi ích trực tiếp từ việc bảo vệ rừng, họ chủ động hơn trong các hoạt động giám sát, bảo vệ rừng, giảm nguy cơ phá rừng và suy thoái rừng. Đây chính là chìa khóa để thị trường các-bon phát triển bền vững tại Thanh Hóa.”

Ông Vụ còn khẳng định: “Việc áp dụng công nghệ viễn thám, GIS và đo đạc hiện đại là bước then chốt để xác định chính xác trữ lượng các-bon và tiềm năng giảm phát thải. Khi làm chủ dữ liệu này, Thanh Hóa sẽ tham gia thị trường các-bon một cách chủ động, hiệu quả và có uy tín quốc tế.”

Trên thực tế, mỗi ha rừng được bảo vệ, mỗi tín chỉ các-bon được tạo ra đều gắn trực tiếp với lợi ích của người dân và mục tiêu giảm phát thải. Đây là nền tảng vững chắc để Thanh Hóa từng bước mở rộng quy mô, tăng hiệu quả kinh tế - môi trường, đồng thời từng bước đưa tỉnh trở thành địa phương dẫn đầu cả nước trong phát triển thị trường các-bon rừng bền vững.

Xem thêm
Bảo tồn đa dạng sinh học ở Nghệ An - cuộc chiến không khoan nhượng

Nghệ An quyết liệt triển khai Đề án 1623/QĐ-TTg, tăng cường phòng chống tội phạm đa dạng sinh học; ba năm sơ kết ghi nhận chuyển biến trong bảo vệ hành lang xanh miền Tây.

Triển khai mô hình Dân vận khéo về phân loại rác

UBND tỉnh Đồng Nai vừa có Công văn số 10614/UBND-KTN về triển khai thực hiện mô hình Dân vận khéo ‘Phân loại chất thải rắn có khả năng tái chế, tái sử dụng’.

Ứng dụng công nghệ viễn thám trong quản lý ngành nông nghiệp và môi trường

Ứng dụng công nghệ viễn thám và trí tuệ nhân tạo đang trở thành công cụ chiến lược giúp Việt Nam hiện đại hóa quản lý nông nghiệp và môi trường thông minh.

Người dân tự nguyện giao nộp ba cá thể động vật quý hiếm

Khi phát hiện 3 cá thể động vật lạ, người dân đã tự nguyện giao nộp. 3 cá thể sau đó được xác định là động vật nguy cấp, quý hiếm.

Bình luận mới nhất

Khai thác tiềm năng tín chỉ các-bon: [Bài 1] Hướng tới nền kinh tế xanh
Biến đổi khí hậu 7 giây trước