Ông Ngô Duy Đông từng làm Bí thư Tỉnh ủy của ba tỉnh Hà Nam, Thái Bình, Hải Dương, trong đó làm Bí thư Tỉnh uỷ Thái Bình và Hải Dương mỗi tỉnh 13 năm. Xen giữa những thời kỳ làm Bí thư, ông còn đảm đương những công việc khác, như từ tháng 4/1971 đến tháng 3/1972 làm Uỷ viên Uỷ ban Nông nghiệp TW.
Năm 1986, đang làm Bí thư Tỉnh uỷ Hải Dương, ông được điều về Hà Nội làm Trưởng ban Nông nghiệp TW, Uỷ viên Hội đồng Nhà nước và giữ hai chức vụ này đến khi về hưu (1988). Nhưng dù làm việc ở đâu thì ông cũng vẫn luôn quan tâm đến đồng ruộng của Thái Bình. Ông Phạm Văn Tấn, nguyên chủ nhiệm HTXNN xã Tây Tiến (Tiền Hải, Thái Bình) nhớ lại:
- Đã sang Hải Dương làm Bí thư rồi nhưng lần nào về, bác Đông cũng xuống xã, lôi chúng tôi ra đồng. Có lần từ sáng sớm, thấy HTX tôi phải kéo lúa bằng trục đá, bác bảo: “Các cậu lên tỉnh xin anh Chất (tức ông Lương Quang Chất, kế nhiệm ông Đông làm Bí thư khi ông chuyển sang Hải Dương) mấy chữ, rồi sang bên ấy, tớ lo cho mấy cái máy công nông”. Được lời, chúng tôi sướng quá. Cầm tờ thư của ông Chất, chúng tôi sang Hải Dương, vào ở luôn nhà bác Đông. Gọi là làm Bí thư nhưng nhà bác cũng rất xuềnh xoàng. Sáng dậy, bác nấu cơm nếp, mấy bác cháu chấm vừng ăn xong thì bác đi làm việc, còn chúng tôi sang Cty vật tư chầu chực, tối mới lại gặp nhau. Mất đến gần tuần. Hồi ấy máy công nông hiếm vô cùng, phải trung ương duyệt cho mới được. Cánh vật tư bên ấy cứ thắc mắc sao Thái Bình lại sang Hải Dương lấy máy, trong khi bên Hải Dương cũng phải bình đi xét lại từng chiếc một. Kết quả là chúng tôi được luôn 7 chiếc. Lái về, cả xã đổ ra mừng.
Nhớ về ông, hầu hết những người từng công tác với ông đều có chung một nhận xét: Ông là con người sống chết với cây lúa, với nông nghiệp. Rất dản dị, nhưng đối với đồng chí, bạn bè thì hết lòng. Cựu đại tá Nguyễn Văn Sáng (chồng bà Lê Thị Định), năm nay 91 tuổi, bùi ngùi:
- Nghe tin anh Đông ốm, tôi lên Hà Nội thăm anh. Tuy nằm bệnh viện nhưng anh vẫn nói rất say sưa về những vấn đề nông nghiệp của đất nước. Tôi cứ nghĩ, bệnh của anh chưa đến nỗi nào, chắc chỉ qua loa rồi lại khỏi. Ai ngờ một tuần sau nghe tin anh mất, tin ấy làm chúng tôi choáng váng. Anh ấy đối với vợ chồng tôi thật như bát nước đầy. Chúng tôi luôn coi anh như người anh cả của mình.
Còn cựu đại tá Trần Quang Ơn cũng rất xúc động khi nhớ lại:
- Đầu năm 1945, bố tôi mất. Tôi với nhà tôi (bà Lương Thị Rồng, em gái ông Đông), lúc đó cũng chưa thành vợ thành chồng, chỉ là hai ông bố hẹn với nhau làm thông gia thôi, tôi 16 còn nhà tôi mới 13. Anh Đông vừa vượt ngục Hoả Lò ra, đang bị giặc lùng ráo riết. Nhưng được tin, anh vẫn bí mật về viếng bố tôi. Chỉ thắp hương, vái mấy vái rồi đi ngay…
Một trong những người bạn mà ông Đông quý nhất, thân nhất, là ông Lê Quý Quỳnh, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Hưng Yên. Ông Quỳnh rất mê ong, đàn ong của Hưng Yên phát triển khắp tỉnh. Mật ong Hưng Yên, do hút nhuỵ hoa nhãn nên có hương vị rất đặc biệt. Nhờ nuôi ong mà dân Hưng Yên nhiều hộ trở nên khá giả. Có lần vị Bí thư Hưng Yên gửi tặng Bí thư Thái Bình một đõ ong. Món quà này khiến ông Đông cũng…mê ong luôn. Ông chỉ đạo cử một nhóm công nhân sang Hưng Yên học kỹ thuật nuôi ong. Kết quả là Cty Bia - Rượu - Ong Thái Bình ra đời, và ngày nay Thái Bình mới có cái thương hiệu “bia ong”. Trong số những người đi học nuôi ong ấy có chị Lựu, con gái ông. Gặp chị, tôi hỏi ngay:
- Có phải Ngô Duy Tân (chủ một doanh nghiệp trong Nam) là em chị không?
- Không, Ngô Duy Tân là cháu nội bác Ngô Duy Phớn. Bố Tân mất năm 1954. Mẹ Tân nuôi ba con khôn lớn, rồi năm 67 hay 68 gì đó, chị ấy đi bước nữa, được thêm một đứa con. Cuộc hôn nhân này bị cả bên nội lẫn bên ngoại phản đối, khiến chị sinh tiêu cực, đã tự tử, may mà cứu kịp. Nghe chuyện đó, bố tôi đã bảo các bác bên uỷ ban sắp xếp việc cho chị ấy…
Kể lại những ngày cuối đời của bố mình, giọng chị rất buồn:
- Năm 1988, nhận quyết định nghỉ hưu với mức lương 733 đồng, bố tôi bảo bác Thợ Rèn (tức nhà thơ trào phúng Thợ Rèn, tên thật là Phạm Văn Huyến, quê ở Vũ Thư, Thái Bình, công tác ở Báo Nhân Dân): “Tớ vừa phát hiện ra ở Hà Nội có một thứ rất rẻ, kho làm thức ăn thì tuyệt. Đó là…cá mè”.
Hồi về Hà Nội, bố tôi được phân một căn hộ mấy phòng trên tầng 2 một khu tập thể dành cho cán bộ cao cấp Trung ương. Nhưng rồi có mấy người khó khăn về chỗ ở đến ở, bố tôi bảo “nhà mình ở hết mấy mà giữ”. Thế là nhà đang rộng hoá chật. Bố tôi mất, giờ em tôi vẫn ở đấy. Cuối đời, bố tôi mắc bệnh rối loạn nhịp tim. Hồi ấy, bên Mỹ người ta mới cho mấy cái máy gì về tim ấy. Bệnh viện cho bố tôi một chiếc. Tôi vào thăm ông ở bệnh viện, ông hỏi tôi: “Mẹ con có sổ tiết kiệm không?”.
Tôi thưa: “Con không hỏi mẹ, nhưng hình như không có”. Bố tôi bảo: “Bệnh viện cho bố một cái máy trợ tim. Cho là cho không. Nhưng mà lắp ráp cũng phải chi phí mất ba triệu đấy. Nhà ta có cái ti vi, con xem liệu bán đi có đủ không?”. Nghe vậy, tôi rất buồn. Sau khi đi học nghề nuôi ong về, tôi làm công nhân một thời gian rồi đi học trung cấp.
Học xong về công tác tại Sở LĐ-TB -XH tỉnh, nhà tôi dạy học, lương đều ba cọc ba đồng. Em trai tôi đi học công nhân kỹ thuật ở nước ngoài. Khi về cũng chả mang được của nả gì. Cậu ấy xây dựng gia đình với một phát thanh viên đài truyền hình, được một thời gian thì vợ chồng chia tay, cuộc sống của nó cũng không dư dả gì. Tuy vậy chị em tôi cũng cố xoay sở. Đủ tiền rồi, mang vào bệnh viện, mới hay cái máy đó là máy tạo nhịp tim, mà bố tôi lại bị rối loạn nhịp tim, nên không dùng được… Mấy ngày sau, bố tôi quy tiên.