"Cơ hội tỷ đô" từ vùng đất khắc nghiệt
Theo PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, vùng Bắc Trung Bộ, đặc biệt là Nghệ An và các tỉnh phụ cận đang sở hữu những điều kiện lý tưởng để phát triển cây dứa, nhất là giống MD2.
“Trời càng khô, độ Brix càng cao. Cây chịu hạn giỏi, bão vào cũng không đổ, canh tác gần như hữu cơ”, ông phân tích, đồng thời nhấn mạnh chính khí hậu khắc nghiệt, nếu biết vận dụng lại là lợi thế cạnh tranh. Ông Doanh cho rằng, dứa là một trong số ít cây ăn quả có thể sinh trưởng tốt dưới điều kiện nắng nóng, ít mưa kéo dài, vốn là đặc trưng khí hậu Bắc Trung Bộ.

PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam. Ảnh: NNMT.
Về thị trường, dứa có nhu cầu tiêu thụ lớn trong và ngoài nước nhưng điều khiến nông dân e ngại lâu nay là bài toán đầu ra. Theo ông Doanh, trở ngại này đang dần được tháo gỡ khi Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Doveco) cam kết đầu tư và đồng hành lâu dài với vùng.
“Tôi đặc biệt yên tâm khi Doveco đầu tư vào đây. Đây là một doanh nghiệp chuyên nghiệp, có hệ sinh thái chế biến bài bản”, ông Doanh nói tại Diễn đàn Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản vùng Bắc Trung Bộ sáng 6/8 (Diễn đàn do Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Hội Làm vườn Việt Nam, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Nghệ An tổ chức theo chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Nếu mở rộng diện tích vùng trồng, ông Doanh tin rằng cây dứa hoàn toàn có thể trở thành "cây tỷ đô” tiếp theo của khu vực.
Không như cam, nhãn, xoài... có tính mùa vụ, cây dứa có thể trồng và thu hoạch quanh năm, tạo lợi thế lớn trong xuất khẩu. Vì vậy, ông Doanh cho rằng việc lựa chọn cây dứa là định hướng đúng nếu địa phương và người dân có chiến lược lâu dài, gắn sản xuất với doanh nghiệp và thị trường.
Tán thành quan điểm mở rộng diện tích dứa tại Bắc Trung Bộ, bà Bùi Thị Hồng Hà, Trung tâm Nông nghiệp Hữu cơ (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) trăn trở khi nông dân mở rộng diện tích dứa nhưng chưa có phương án tiêu thụ bền vững.
Theo bà Hà, cây dứa có nhiều lợi thế để phát triển tại các tỉnh Bắc Trung Bộ, đặc biệt là trên những chân đất chuyển đổi từ đất lúa kém hiệu quả hoặc vùng gò đồi thiếu nước tưới. Đây là cây trồng phù hợp với điều kiện khô hạn, có thể cho thu nhập cao hơn so với lúa hay cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cần bền vững, tránh mang tính tự phát, thiếu liên kết giữa người trồng với doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Dù là cây trồng tiềm năng nhưng nếu không gắn cây dứa với thị trường thì nông dân sẽ rơi vào cảnh được mùa mất giá. Nhiều hộ dân trồng dứa chỉ dựa vào kinh nghiệm, chưa nắm chắc kỹ thuật nên chất lượng không đồng đều, khó vào được chuỗi xuất khẩu chính ngạch.
Trên cơ sở đó, bà Hà cho rằng những hộ dân chuyển đổi rất cần các doanh nghiệp đầu tư vào vùng nguyên liệu nhằm tạo ra chính sách khuyến khích đủ mạnh, hạ tầng kho bãi, giao thông.

Cây dứa đặc biệt thích hợp với khí hậu khô hạn. Ảnh: NNMT.
Thay đổi tư duy để khai mở tiềm năng chè, cây có múi
Bên cạnh dứa, nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh cho rằng cây có múi và cây chè vốn từng là thế mạnh của vùng đang gặp nhiều thách thức nhưng vẫn còn tiềm năng lớn nếu được đầu tư đúng hướng.
Trong đó, cây có múi như cam, quýt đang suy giảm mạnh do ảnh hưởng của sâu bệnh, đặc biệt là bệnh Greening (vàng lá gân xanh) khiến nhiều vườn bị phá bỏ trong những năm gần đây. “Nguyên nhân chủ yếu là giống thoái hóa, cộng với việc chưa có quy trình phòng trừ hiệu quả”, ông Doanh lưu ý.
Trước tình hình này, Hội Làm vườn Việt Nam đã chủ động kết nối với phía Australia - quốc gia có nhiều kinh nghiệm phòng trừ bệnh Greening để xin tài trợ một dự án kỹ thuật. Dự án sẽ hỗ trợ giống sạch bệnh và quy trình canh tác thích ứng nhằm phục hồi ngành hàng cây có múi tại Bắc Trung Bộ.
Với cây chè, vùng đã có hơn 10.000 ha nhưng giá trị thu được lại chưa tương xứng với tiềm năng. “Giá trị từ chè búp tươi có thể đạt 400 triệu đồng/ha, nếu chế biến thành chè đen có thể tăng gấp đôi. Nhưng thực tế thu nhập trung bình từ cây chè ở Bắc Trung Bộ mới chỉ khoảng 50 - 60 triệu đồng/ha - mức quá thấp”, ông Doanh nhận xét.
Nguyên nhân của hạn chế này theo ông Doanh là do nhiều địa phương chưa chú trọng đổi mới giống, kỹ thuật và công nghệ chế biến. Một số tỉnh đã bắt đầu tái cơ cấu giống, chọn hướng đi phù hợp hơn với thị trường trong nước và xuất khẩu.
Ông gợi ý các tỉnh nên tổ chức đoàn tham quan, học hỏi mô hình canh tác và chế biến chè tại Thái Nguyên - nơi đang làm tốt việc nâng cao giá trị sản phẩm chè thông qua liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ gắn với xây dựng thương hiệu.
Từ những phân tích trên, ông Doanh khẳng định, để khai mở tiềm năng nông sản Bắc Trung Bộ, điều quan trọng là thay đổi tư duy canh tác, đầu tư bài bản và xây dựng liên kết chặt chẽ giữa "4 nhà": nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp và chính quyền.
“Khí hậu khắc nghiệt không phải là điểm yếu nếu con người biết thích nghi. Càng khó càng phải nghĩ cách làm cho khác. Đó là cơ hội để vươn lên bằng chính sự khác biệt”, ông kết luận.
Ông Nguyễn Thế Trung, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An chia sẻ, dừa và dứa là 2 mặt hàng có thị trường tiêu thụ lớn và ổn định trong năm. Trong khi miền Nam có nhiều lợi thế trồng dừa thì khu vực phía Bắc có nhiều tiềm năng để phát triển mạnh cây dứa nhờ điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi.
Ông Trung nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngành công nghiệp chế biến nông sản không chỉ như một động lực tăng trưởng mà còn là cầu nối liên kết giữa các địa phương. Tuy nhiên, lợi nhuận từ đầu tư vào chế biến nông sản chưa thể thấy ngay mà thường phải 6 - 7 năm mới có thể đánh giá hiệu quả thực sự. Việc này phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên như đất đai, nguồn nguyên liệu ổn định và đảm bảo môi trường.
Do đó, nếu một nhà máy chế biến được xây dựng mà không đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào thì sẽ rất rủi ro. Ông trăn trở, nhiều địa phương phải giải được bài toán làm thế nào để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào chế biến sâu nông sản, nâng cao giá trị sản phẩm và cải thiện thu nhập cho nông dân.