Có nỗi nhớ nào lạ lắm, cứ len lỏi trong tôi ngày đầu mùa hạ. Nỗi nhớ giăng mắc, buông tơ vào tâm hồn tôi khi bóng nắng ngoài kia đang đu đưa cùng gió. Phải rồi, là nỗi nhớ mơ hồ về khoảnh khắc tháng năm xưa. Tiếng tu hú gọi bầy bên rặng tre già khắc khoải. Làng xóm vắng lặng, thi thoảng nghe tiếng gà cục tác bên ổ rơm xao xác đưa tôi về miền ký ức.
Ngày đấy, làng xóm còn nghèo. Đường làng, ngõ xóm đều một màu đất sét, hiếm hoi mới có một số con ngõ được kê những hòn đá xanh rêu. Những ngôi nhà vách đất, mái tranh lúp xúp nối nhau bằng những cái ao, mảnh vườn thành làng. Nhà xây ít lắm, cả một làng, đếm được không đủ một bàn tay nhà có tường bao bằng gạch. Ranh giới giữa nhà nọ với nhà kia thường là hàng rào trồng bằng cây xanh. Cẩn thận thì chủ nhà cắt xén, không thì buộc chúng vào với nhau cho gọn.

Hàng rào duối tại xã Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ảnh: Bùi Ngân.
Làng tôi có nhiều hàng giậu như thế. Vườn nhà bác Hiên có hàng rào dâm bụt cao ngang đầu tôi. Thi thoảng, anh Yên lại cắt những cành mọc chồi lên thành thử hàng giậu đó cứ bằng tăm tắp. Riêng từ mùa xuân cho đến mùa hạ, anh để cây vươn cành lên cao rồi trổ hoa. Mùa hè, lũ trẻ chúng tôi hay ra hái hoa chơi. Có loại hoa màu đỏ thắm, cánh đơn, nhụy vàng. Có loại hoa màu đỏ gạch pha những đốm trắng, cánh đơn mỏng, nhiều tua, khi nở cánh hoa chụm vào nhau cong lên như chiếc đèn lồng xinh xắn. Có lẽ vì thế mà người ta gọi đó là dâm bụt lồng đèn. Hồi đó tôi chẳng thích loài hoa này, chúng mỏng manh, còi cọc bên vườn, màu hoa đỏ gạch nhạt nhòa bên cạnh những bông hoa dâm bụt đỏ thắm. Vậy mà bây giờ lại thấy nó đẹp mà tìm mãi, chả có chỗ nào còn giống cây này.
Bọn con gái thường tước cánh hoa dán lên mặt, chỉ là trò chơi thôi, nó hơi dị nhưng khi bóc cánh hoa đi, mặt đứa nào cũng hồng lên như bôi son. Khi bóc hết cánh, bông hoa chỉ còn đài và nhị trông giống chiếc cần câu bé xíu để chơi trò câu cá. Những chiếc lá ngắt rồi bó lại giả vờ làm rau, người bán, người mua rôm rả cả con ngõ nhỏ.
Nhà tôi nuôi thỏ, tôi hay hái lá dâm bụt non cho thỏ ăn. Những chiếc lá nhơn nhớt tựa như lá rau đay khi bị vò nát là món khoái khẩu của những con thỏ trắng xinh xắn. Mỗi bận đi câu, tôi chạy ào ra bờ giậu, ngắt những tổ sâu được cuốn từ lá dâm bụt thành những cái kèn. Lá càng to thì sâu càng to, ngoắc mồi câu rất tiện, những chú cá rô rất thích ăn món mồi nhử này.

Dâm bụt, có loại hoa màu đỏ thắm, cánh đơn. Có loại hoa màu đỏ gạch. Khi nở, cánh hoa chụm vào nhau, cong lên như chiếc đèn lồng xinh xắn.
Có những loài cây được trồng quanh vườn làm giậu mà bọn trẻ chúng tôi rất thích, đó là giậu cúc tần. Những cây cúc tần nhà bác Miên cứ thoải mái mà vươn lên trong nắng, gió, chả bị ai cắt xén bao giờ, xoà ra cả đường đi. Có những chỗ thưa, trống huếch trống hoác, chúng tôi thường chui vào trộm ổi, trộm táo. Chị Xuyên và bác thường hay mải làm nan đan ấm giỏ hoặc lồng bàn nên cũng chả có thời gian để ý đến khu vườn. Vườn nhà bác khuất sau nhà nên mùa ổi, mùa táo chúng tôi cứ ăn thoả thích. Bù lại, những lúc rảnh, lũ trẻ chúng tôi kéo nhau vào sân nhà bác. Những nan nứa bác vừa chẻ ra, mỗi đứa một bó ngồi đạp chân cho đến khi cả bó nan sạch sẽ và tròn đều tăm tắp nằm trên lớp bụi nứa mịn màng.
Một ngày, hàng cúc tần già cỗi ấy mang dáng vẻ mới mẻ, tươi đẹp là ngày dây tơ hồng ở đâu leo đầy lên bụi cây. Chả hiểu sao, gọi là dây tơ hồng nhưng chúng lại vàng óng, nhỏ như sợi cước câu. Chẳng biết chúng được sinh ra từ đâu mà bám đầy giậu. Có những cây cúc tần cao, tơ vàng như một suối tóc của các cô gái châu Âu óng mượt thả dài xuống tận gốc. Thế rồi không ai để ý, chúng cũng lại tự dưng biến mất để lại dáng vẻ cũ kỹ, hiền lành cho những bụi cúc tần bên ngõ xóm như xưa. Đêm đến, học khuya, tôi còn nghe rõ tiếng ho của bác Miên trai qua hàng giậu cúc tần vọng vào mỗi đêm một nhiều thêm. Rồi một ngày, những tiếng ho dai dẳng hàng đêm ấy im bặt, từ đó lũ trẻ chúng tôi chẳng còn đứa nào muốn chui qua hàng giậu vào vườn hái ổi nhà bác nữa. Thương cả hàng giậu cúc tần bạc phếch lá, cô đơn dưới nắng trưa!
Cũng là giậu cúc tần nhưng nhà bác Huy lại xén tỉa đi trông cũng rất đẹp mắt. Lẽ tất nhiên, hàng giậu này chả đứa nào dại mà chui vào vì dễ bị phát hiện. Những chiếc lá non màu xanh bạc làm cho bức tường cúc tần trông dễ thương. Mỗi khi trở trời, gió lần giở đếm những đốt xương, tôi thường ra bụi cúc tần ấy hái lá về rang với cám nóng rồi quấn trong chiếc khăn vuông để đánh cảm cho bà. Vị thuốc rẻ tiền từ cúc tần bờ giậu với cám gạo ấm nóng, thơm thơm mà rất hữu ích, đã xua đi sương, gió từ bao ngày dầm mưa, dãi nắng tích tụ trong người của những người nông dân một nắng hai sương như bà, như mẹ.
Ngay mặt đường làng là bờ giậu được trồng bằng cây ô rô trông thật đẹp, đều tăm tắp. Ngày mưa, những chiếc lá bé xíu hứng giọt mưa mơn mởn, nước đọng lại long la long lanh.
Xung quanh nhà tôi là hàng giậu duối cao quá đầu người. Ông tôi thường cắt tỉa chúng bằng phẳng, cảm giác như có thể ngồi vắt vẻo được trên đó. Mỗi lần mở cửa sổ ra là thấy bờ giậu với những chiếc lá duối ram ráp, xanh thẫm làm dịu hẳn những cơn nắng oi nồng. Chúng tôi thường hái những quả duối chín mọng, vàng ươm lấp ló để “liên hoan”. Bờ giậu này là sân tắm nắng của mấy con thằn lằn, kỳ nhông. Thế mà đến đúng giờ Ngọ mùng 5 tháng 5 âm thì chúng trốn đâu biệt tăm biệt tích.

Bó lá mùng 5 - tết Đoan ngọ. Ảnh: Lê Quân.
Ngày tết Đoan ngọ, canh đúng giờ Ngọ, mẹ tôi thường đi cắt lá cây về làm thuốc, trong đó có cúc tần, lá duối, lá tre và một số loại lá khác về phơi khô để dùng dần. Những loại lá ấy có đầy trong ngõ xóm. Người dân làng tôi truyền rằng, những chiếc lá cây thuốc nam được hái đúng giờ đó, có tác dụng rất tốt. Tôi chẳng biết nó tốt như thế nào nhưng mỗi bận đi học xa, tôi lại gói theo một bọc lá khô to tướng để lên thành phố đun nước gội đầu. Mùi hương của các loại lá nao nao gợi nỗi nhớ quê nhà, nhớ cái nắng chang chang với những hàng rào cây xanh mọc khắp làng, nhớ dáng mẹ tảo tần, bươn bả sớm khuya.

Mùi hương của các loại lá nao nao gợi nỗi nhớ quê nhà. Ảnh: Thiện Hợp.
Gió bốn mùa cứ thả sức nô đùa trên các bờ giậu. Bướm ong thỏa sức bay. Cổng nhà gần như không có, nếu có cũng được đóng bằng tre đơn sơ, mộc mạc, chủ yếu để chó và gà đỡ chạy ra ngoài. Xóm nghèo nhưng thân thiện, đầm ấm, chỉ với tay qua bờ rào là cho nhau những món quà quê một cách dễ dàng. Quà chỉ đơn giản là củ khoai luộc, bắp ngô nướng hay bát chè xanh… Bọn trẻ chúng tôi cũng ào một cái là sang nhà nhau chơi được. Tình quê là vậy, mộc mạc mà thân thiết, gần gũi, gắn bó.
Xóm làng bây giờ cứ thưa dần rồi mất hẳn những bờ giậu xanh ngày xưa. Thay vào đó, những bức tường kín cổng cao tường mọc lên. Gió bơ vơ thổi bên ngoài tường bao. Còn đâu những hàng rào cho lũ chuồn chuồn đậu trêu ngươi lũ trẻ, chúng ngẩn ngơ tìm đậu ở nơi nào? Trẻ con ít khi được chơi đùa như bọn tôi thuở ấy. Màu xanh bớt dần đi trên những con đường làng, ngõ xóm. Những bức tường rào, những bờ giậu xanh một thuở, giờ về đâu?