Ít ai biết rằng, ngay trên con đường Hồng Hà, chỉ cách khu chợ Long Biên náo nhiệt vài bước chân, có một “nhân chứng thầm lặng” ghi nhận những đóng góp cho công tác dự báo, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra – Trạm Thủy văn Môi trường Hà Nội, tiền thân là Trạm Thủy văn Hà Nội. Đây là một trong số rất ít các trạm của Việt Nam được Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) công nhận có lịch sử quan trắc hơn 100 năm.
Trăm năm đo nước, đếm phù sa
“Chính xác thì trạm đã hoạt động hơn 120 năm” - ông Nguyễn Văn Triệu, nguyên Trưởng Trạm (giai đoạn 1985 – 2011) chia sẻ. Theo lịch sử ghi lại, Trạm thành lập năm 1902, thuộc Ti Thủy lợi thời bấy giờ, địa chỉ ở 35 phố Gia Ngư và có nhiệm vụ đo mực nước sông Hồng. Từ đo đạc để nắm thông tin lũ lụt cho người Pháp, sau 1945 là phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu cho Thủ đô. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, công việc có lúc gián đoạn do đạn bom, sau đó hoạt động thường xuyên và ổn định đến ngày nay.

Đoạn sông chảy qua cầu Long Biên, hai bên là bãi tràn khi lũ lên. Ảnh chụp khoảng năm 1950. Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia 1
Cuốn lịch sử của Trạm có mô tả: đoạn sông đặt trạm dài khoảng 2km và tương đối thẳng, có đặt cầu Long Biên và sau này là cầu Chương Dương. Ngày ấy, từ bờ sông đến hai bờ đê chính là bãi tràn mùa lũ. Bờ phải kéo dài từ Yên Phụ đến dốc Thanh Trì; bờ trái từ ngã 3 sông Đuống đến tận Bát Tràng.
Trong quan trắc dòng chảy, Trạm đo thủ công theo thủy trực trên tuyến đo lưu lượng. Cụ thể, tuyến cách cầu Long biên khoảng 1,2km về phía thượng lưu và có 13 thủy trực, được xác định theo mặt cắt ngang sông từ bờ bên này sang bờ bên kia. Mỗi thủy trực có 3 – 5 điểm đo sâu xuống lòng sông. Cán bộ thủy văn từ trên thuyền thực hiện quan trắc tại vị trí quy định. Thời kỳ đầu, mỗi khi thực hiện đo, họ phải múc vài chục lít nước, để lắng lại, lấy mẫu phù sa lơ lửng và phù sa đáy phân tích thành phần, nồng độ, đặc tính hóa học và vật lý của phù sa, từ đó đánh giá mức độ ô nhiễm, tình trạng bồi lắng, hoặc sử dụng phù sa cho các mục đích. Từ khoảng những năm 80, quan trắc viên thả thiết bị đo có hình dáng giống con cá bằng sắt xuống sông để thu thập mẫu nước, mẫu phù sa và các thông số khác.

Thủy chí trên trụ số 17 cầu Long Liên đã tồn tại hơn trăm năm. Mỗi năm, cán bộ Trạm thủy văn Môi trường Hà Nội sẽ vẽ lại thủy chí 2 – 3 lần để giữ cho rõ nét. Ảnh: Trung Nguyên.
Ông Triệu chia sẻ: Công việc đòi hỏi sức khỏe vì thời gian đo thường kéo dài, có khi tới 3 tiếng đồng hồ, thậm chí lâu hơn nếu máy trục trặc hoặc gặp vật cản. Con cá sắt nặng tới cả tạ để giữ thiết bị và dây đo thẳng đứng từ mặt nước xuống tận đáy sông. Mỗi lần đo như vậy cần nhiều người phối hợp: một người lái ca nô, một máy trưởng, một người phụ trách lấy mẫu, còn lại lo kéo neo, giữ thăng bằng.
“Mùa cạn đỡ vất vả nhưng mùa lũ thì cực kỳ khó khăn. Nhớ ngày đó, tàu nào cũng để sẵn con dao hoặc rựa, rìu để sẵn sàng chặt dây cáp nếu gặp búi tre, cây to trôi theo lũ. Những thứ ấy mà vướng vào sẽ kéo díu dây cáp xuống, nhẹ thì chìm tàu mất thiết bị, nặng có khi mất cả mạng”, nguyên Trưởng Trạm bồi hồi.
Ngày nay, thiết bị hiện đại giúp rút ngắn thời gian đo xuống chỉ còn khoảng 15 phút, dữ liệu truyền trực tiếp về máy tính. Theo chị Phạm Thị Lan, Trạm Phó Trạm Thủy văn Môi trường Hà Nội, quan trắc viên sẽ ra điểm đo và thả máy xuống nước, máy đo sẽ gửi số liệu quan trắc về máy tính trên thuyền. Quan trắc viên sẽ đọc mực nước, quan sát hiện trạng mặt sông, bờ sông để ghi nhận nếu có điểm bất thường.

Chị Phạm Thị Lan, Phó Trạm Thủy văn Môi trường Hà Nội thực hiện đo lưu lượng trên tuyến đo xuất phát từ bến Chương Dương Độ. Ảnh: Trung Nguyên.
Trở ngại lớn nhất có lẽ là thời tiết. Công việc đo lưu lượng đòi hỏi phải thực hiện đúng thời gian quy định, bất kể nắng, mưa, thời tiết xấu hay sóng lớn. Bình thường cách khoảng 2 – 3 ngày đo một lần, những ngày lũ lên hoặc khi mưa bão, công tác đo được thực hiện hàng ngày hàng giờ để thông tin kịp thời tình hình thủy văn, phục vụ dự báo, cảnh báo thiên tai của Hà Nội và Trung ương.
Từ năm 2007, Trạm được giao thêm nhiệm vụ quan trắc các yếu tố về môi trường không khí tự động, phân tích mẫu nước mưa để có thông tin về mức độ ô nhiễm không khí, lượng mưa. Theo cách thức phân loại mới, hiện nay, Trạm thuộc nhóm trạm cơ bản trong Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia. Số liệu sẽ được sử dụng để kiểm tra, đánh giá, so sánh số liệu quan trắc của các trạm khí tượng thủy văn khác trên cùng khu vực.

Anh Nguyễn Hoàng Hải, nhân viên kĩ thuật thâm niên 26 năm cho biết, tàu thuyền qua lại khu vực quan trắc ngày càng càng đông nên lái tàu quan trắc ngoài việc đi đúng tuyến đo thì phải đảm bảo an toàn, hết sức tránh va chạm. Ảnh: Trung Nguyên.
Ông Hoàng Ngọc Vệ, Trạm trưởng Trạm Thủy văn Môi trường Hà Nội chia sẻ: Công việc “sát sườn” của Trạm là quan trắc thủy văn phục vụ dự báo, cảnh báo thiên tai và cung cấp thông tin điều phối nước phục vụ sản xuất cho các địa phương hạ lưu sông Hồng.
Hiện đặc thù Trạm có vị trí quan trắc khá phức tạp. Khác với hầu hết các trạm thủy văn thường có vị trí “trên bến, dưới thuyền” để thuận tiện cho việc quan trắc, tuyến đo mực nước của Trạm Thủy văn Môi trường Hà Nội vẫn ở trụ số 17 của cầu Long Biên từ cả trăm năm nay, còn tuyến đo lưu lượng đã chuyển từ gần cầu Long Biên đến bến Chương Dương Độ, cách trụ sở trạm gần 3km. Nguyên nhân do chế độ dòng chảy thay đổi theo thời gian và Trạm phải lựa chọn vị trí quan trắc phù hợp hơn.
Chuỗi quan trắc thủy văn không chỉ là những con số, mà còn là minh chứng cho sự đổi thay của dòng sông qua từng thời kỳ. Nhờ có chuỗi dữ liệu ấy, các nhà khoa học mới có cơ sở đối chiếu, phân tích để hiểu nguyên nhân và xu thế biến động, từ đó đưa ra dự báo chính xác hơn.
Ký ức những trận lũ lịch sử
Tròn 1 năm trước, bão Yagi – cơn bão mạnh nhất trong vòng 30 năm trở lại đây đổ bộ Việt Nam. Sau mưa lớn, lũ dồn dập tấn công các tỉnh, thành miền Bắc. Cũng giống như toàn bộ các Trạm Khí tượng thủy văn khác ở Bắc Bộ, cán bộ Trạm Thủy văn Môi trường Hà Nội ứng trực 24/24 suốt thời gian xảy ra bão.
Trong khoảng 3 ngày, từ 9 – 11/9, lũ từ các nơi đổ về khiến mực nước sông Hồng tại cầu Long Biên liên tục dâng. Riêng ngày 10/9, trạm phát báo động I vào khoảng 11 giờ trưa. Đến gần nửa đêm cùng ngày, trạm tiếp tục phát báo động II. “Mực nước không ngừng dâng lên” – chị Bùi Thị Huệ, quan trắc viên của Trạm hồi tưởng.

Quan trắc viên Bùi Thị Huệ xử lý dữ liệu thu thập được sau mỗi chuyến quan trắc trên sông. Ảnh: Trung Nguyên.
Các quan trắc viên thay phiên nhau lên cầu Long Biên 1 tiếng/lần để đọc trực tiếp mực nước lũ ở thủy chí trên trụ cầu. Chị Huệ vẫn nhớ như in cảm giác khi đó: “Trời mưa to, chỉ có một mình mình đi trên cầu do các phương tiện đã bị cấm qua lại. Nhìn nước sông dâng mỗi lúc một cao giữa trời đất mịt mù, cảm giác thực sự khó tả!”.

Bức ảnh cầu Long Biên trong đợt mưa bão Yagi năm 2024 được Trạm chụp lại qua thiết bị quan sát. Trong khi lũ dâng mấp mé cầu, các phương tiện bị cấm qua lại thì các quan trắc viên vẫn thay phiên nhau 1 tiếng/lần lên cầu để đọc trực tiếp mực nước lũ ở thủy chí trên trụ cầu. Ảnh: ĐVCC.
Đều là những người có thâm niên công tác trên dưới 20 năm trong nghề, nhưng đây có lẽ là những ngày không bao giờ quên của đội ngũ cán bộ Trạm khi lần đầu tiên họ chứng kiến lũ sông Hồng ở Long Biên lên gần báo động III. Đỉnh điểm là khi lũ lên cao và lên rất nhanh, trụ sở Trạm bị ngập, bị cắt điện. Mọi người vừa khẩn trương bê đồ đạc lên chỗ cao hơn, vừa đo lượng mưa, mực nước và báo cáo về Đài khu vực đảm bảo nhanh chóng, kịp thời.
Thông tin lũ lúc ấy rất cần kíp cho các cơ quan chức năng và người dân. Theo tình trạng nước dâng được cập nhật thường xuyên, các lực lượng phòng chống thiên tai sẵn sàng phương án cho tình huống xấu nhất, thậm chí diễn tập đóng cửa khẩu để ngăn nước tràn tại cửa khẩu Tân Ấp và cửa khẩu chợ Long Biên thuộc đê hữu Hồng. "Đêm trắng canh lũ, canh mưa rồi cũng qua. May mắn đến nửa đêm về sáng 12/9, lũ chững lại cách mốc báo động III khoảng 20cm rồi giảm dần. Khi đó mới thực sự là lúc những cán bộ Trạm thở phào nhẹ nhõm hơn", chị Huệ cho biết.

Nguyên Trưởng Trạm Nguyễn Văn Triệu chia sẻ với phóng viên về sự thay đổi của lòng sông. Ảnh: Trung Nguyên.
Trong ký ức nguyên Trưởng trạm Nguyễn Văn Triệu, lâu lắm Hà Nội mới đối mặt với một đợt lũ lớn như vậy. Khoảng từ năm 2008 về trước, thời điểm ông công tác tại trạm, hầu như năm nào Hà Nội cũng có vài lần lũ đạt báo động III, mực nước thường xuyên quanh mốc 11-12m (đỉnh lũ trong đợt bão Yagi là 11,2m). Chuyện vừa chạy lũ vừa quan trắc thành chuyện “cơm bữa”, nhất là lũ năm 1996 khi mực nước cao 12m47. Người dân phải sống chung với lũ tới cả chục ngày.
Trước đó nữa, lũ lịch sử làm vỡ đê Yên Viên năm 1971 ghi nhận mực nước cao trên 14m, vượt báo động III tới hơn 2 mét nước và nhấn chìm vùng phía ngoài bờ đê sông Hồng.

Trạm trưởng Hoàng Ngọc Vệ chia sẻ nguyên lý hoạt động của máy đo mưa tự động tại Trạm. Ảnh: Trung Nguyên.
Bão, lũ qua đi, cán bộ trạm cũng như những cán bộ trong mạng lưới quan trắc quốc gia lại tiếp tục công việc hàng ngày: đo nước, đo mưa, lấy mẫu không khí, phân tích và báo cáo số liệu quan trắc theo ngày, theo tuần, theo tháng... thầm lặng ngay giữa một trong những khu vực sôi động nhất của Hà Nội. Những con số được viết nối tiếp qua từng thế hệ quan trắc viên, như những trang nhật ký không lời của sông Hồng. Qua trăm năm vẫn đều đặn làm nền tảng cho công tác dự báo, cảnh báo giúp Thủ đô và vùng hạ lưu sông an toàn hơn trước những biến động khó lường của thiên tai.
Lũ có nỗi lo của lũ. Nhưng khi lũ ít về cũng canh cánh nỗi lo. Khoảng từ năm 2012 trở lại đây, sông Hồng rất hiếm khi xuất hiện lũ lớn. Lượng phù sa giảm mạnh, thậm chí có thời điểm mực nước ghi nhận ở mức “âm” – tức thấp hơn cả mực nước biển.
Không chỉ đáy sông thay đổi, đôi bờ cũng bị lấn chiếm khiến bề mặt dòng chảy thu hẹp dần. Điển hình là đoạn hợp lưu ở bãi nổi Tứ Liên, lạch sông từng rộng hàng trăm mét, nay đã co hẹp thấy rõ. Ngay cả trong mùa lũ, nước cũng không còn dâng cuồn cuộn như trước mà chảy chậm lại vì bị cản trở.
Những biến đổi ấy không đơn thuần là hiện tượng tự nhiên, mà còn là tín hiệu cảnh báo lòng sông bị đào sâu khiến chế độ thủy văn mất cân bằng, lượng phù sa giảm làm suy yếu quá trình bồi đắp đồng bằng, cùng với đó, việc lấn chiếm bờ sông gia tăng nguy cơ ngập lụt và sạt lở. Thực trạng đòi hỏi việc quản lý và bảo vệ dòng chảy sông Hồng cần được đặt ra nghiêm túc hơn bao giờ hết.