Khiếu Năng Tĩnh là một một học giả uyên thâm, một nhà giáo dục lỗi lạc. Chính ông đã đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước. Ở TP HCM hiện có một con đường mang tên ông ở phường An Lạc A, quận Bình Tân.
Hai lần giữ chức Đốc học Hà Nội
Mới đây, tại Bái đường Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Trung tâm hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã phối hợp cùng Viện Sử học Việt Nam và dòng họ Khiếu đã long trọng tổ chức cuộc Hội thảo khoa học về “Danh nhân Tế tửu Quốc Tử Giám Khiếu Năng Tĩnh - Cuộc đời và sự nghiệp” nhằm tôn vinh ông – một trong những danh nhân lịch sử có nhiều cống hiến quan trọng cho sự nghiệp văn hóa giáo dục của dân tộc nhằm hướng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội 2010.
Danh nhân Khiếu Năng Tĩnh tên tự là Trọng Định, hiệu Mỹ Đình là danh sĩ đời vua Tự Đức (1848 - 1883), sinh năm Ất Mùi (1835), người làng Trực Mỹ (Chân Mỹ), xã Yên Thắng, Tổng Tử Vinh, huyện Đại An (Yên), phủ Nghĩa Hưng nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Khoa thi Hương niên hiệu Tự Đức 31, năm Mậu Dần (1878), ông dự Trường thi Nam Định do Thị lang bộ Binh Hà Văn Quan làm Chánh chủ khảo. Theo danh sách công bố đỗ cử nhân (thi Hương trúng tam trường gọi là tú tài, trúng tứ trường gọi là cử nhân), Khiếu Năng Tĩnh đã đỗ đứng thứ 5 kỳ thi này. Hai năm sau, vào tháng 3 niên hiệu Tự Đức 33, năm Canh Thìn (1880) ông vào Huế dự thi Hội; kỳ thi Hội này vua Tự Đức ra đề bài rất thực tế và liên quan đến việc thực hiện phép Quân Điền tại Bắc Kỳ, thí sinh phải viết dưới dạng biểu, theo thể thức viết của Hàn Dũ – một trong “Bát đại gia nổi tiếng” của đời Đường - Tống; đề thi khó đã khiến nhiều thí sinh lúng túng, còn Khiếu Năng Tĩnh đã làm khá trọn vẹn bài biểu này; khi chấm quyển, các quan phải lựa từng đoạn văn để cho điểm, và chọn được có 6 người thuộc hạng trúng cách, trong đó có Khiếu Năng Tĩnh và 7 người thuộc hạng phó bảng.
Giáo sư Đinh Xuân Lâm: Trong những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Khiếu Năng Tĩnh vừa giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, vừa tham gia biên soạn nhiều bộ sác quý, năm 1900 bộ sách Minh Mạng chích yếu, năm 1901 dịch Luận ngữ diễn âm, năm 1902 cuốn Nhân thế tu tri. Qua các tác phẩm Hán – Nôm, ông đề cao khí tiết giới trượng phu, trong Cố hương thi tập ông đã nói lên tâm sự của mình, đồng thời cũng là tâm sự chung của giới sĩ phu yêu nước có khí phách, trung thực thời bấy giờ.
Nếu theo lệ thường thì chỉ những người có hạng trúng cách mới được dự thi Đình, nhưng vua Tự Đức cho rằng như vậy số tiến sĩ được chọn sẽ rất ít, nên vị vua kỹ tính và cẩn thận trong học thuật này đã chấp thuận cho cả 13 người được dự thi Đình. Và ngay tại kỳ thi Đình tháng 4 cùng năm ấy (1880), Khiếu Năng Tĩnh đã đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân; danh tính tiểu sử đã được khắc vào bia đá Hoàng triều Tự Đức tam thạp tam niên Canh Thìn khoa Tiến sĩ đề danh bia, hiện vẫn được trân trọng lưu giữ tại Văn Miếu Huế.
Sau khi đỗ đạt, Khiếu Năng Tĩnh đã làm quan triều đình nhà Nguyễn với nhiều trọng trách: Đốc học Nam Định và Hà Nội, Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, Tư nghiệp rồi Tế tửu Quốc Tử Giám. Giữ chức Đốc học Nam Định và Hà Nội ông đã có công đào tạo và lựa chọn được nhiều người tài giỏi có công với nước nhà.
Phát hiện ra tài năng Phan Bội Châu
Có thể nói sự nghiệp của danh nhân Khiếu Năng Tĩnh thể hiện trên nhiều lĩnh vực. Ông là một nhà văn, nhà giáo, nhà văn hóa tài ba cuối thế kỷ XIX. Ông không chỉ học giỏi đỗ cao, tài năng của ông khá nổi tiếng đến nay vẫn được người đời lưu nhớ truyền tụng. Vào thập niên 90 của thế kỷ XIX, ông được triều Nguyễn trọng dụng thăng cử giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám. Khoa thi Canh Tý niên hiệu Thành Thái 12 (1900), ông làm quan Chánh chủ khảo trường thi Hương Nghệ An (Tham tá Mai Khắc Đôn làm Phó chủ khảo); trong kỳ thi này ông cùng các cộng sự đã lấy đỗ 30 cử nhân.
Có một chuyện thú vị, trong bài thi về phần phú do Khiếu Năng Tĩnh với chức vị Chánh chủ khảo kỳ thi ra đề “Bái thạch vi huynh” (Lạy đá làm anh) và ông đã phát hiện ra tài năng Phan Bội Châu (người xã Đan Nhiễm, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An); đề thi này đã được Phan Bội Châu làm bài vượt trội, nổi tiếng trường thi thời bấy giờ. Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh cùng các quan chấm thi đã lấy Phan Bội Châu đỗ giải nguyên (đứng đầu kỳ thi Hương) và lựa chọn Đoàn Tử Quang (người xã Phụng Công, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) khi đó đã 82 tuổi đỗ cử nhân. Đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam lấy đỗ kỳ thi khi thí sinh tuổi đã ngoài 80.
Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc: Thăng Long – Hà Nội không chỉ là mảnh đất mà cụ Khiếu Năng Tĩnh đã một thời gắn bó và cống hiến mà vùng đất Kinh kỳ nghìn năm văn vật này còn trở thành một nguồn cảm hứng mãnh liệt trong thi ca và sáng tác của cụ. Đó là nguồn cảm hứng yêu nước thương dân, cảm hứng về trách nhiệm của kẻ sĩ và là nguồn hy vọng bất tận của nhà thơ ở một tương lai “Thanh bình” mà thời đại Hồ Chí Minh đã có thể đem lại.
Với tư cách của một nhà văn, Khiếu Năng Tĩnh sau nhiều năm nghiên cứu thực tế Nam Định, ông đã để lại cho đời tác phẩm Hán Nôm nổi tiếng “Nam Định tỉnh địa dư”. Nội dung sách cung cấp nhiều tư liệu quý trên nhiều lĩnh vực: Từ miếu, cổ tích, danh nhân, dường xá, núi sông, phong tục, kỹ nghệ, sản vật, rất có giá trị về lịch sử văn hóa địa phương.
Khiếu Năng Tĩnh còn thể hiện sự gắn kết tư tưởng yêu nước trong tấm lòng yêu quê hương tha thiết của ông. Chính ông đã ủng hộ và cổ súy cho những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương đất nước như: Hội đồng canh, Tết hạ điền, Lễ cơm mới, Hội lão ông, Hội lão bà, Hội nữ quan, Hội bát âm, Hội phường trống, Hội rồng, Hội lân, Lễ mừng thọ… Ông luôn gần gũi quan tâm đến cuộc sống của người nông dân, khuyến khích bà con trồng lúa, khơi mương, trồng dâu nuôi tằm, canh cửi… khuyên bảo mọi người làm những điều nhân nghĩa, chống mê tín dị đoan, góp phần xây dựng thuần phong mỹ tục cho quê hương, đất nước …
Khi về già, danh nhân Khiếu Năng Tĩnh mở trường dạy học tại quê nhà, và ông đã đào tạo được nhiều học trò xuất sắc. Những học giả đời sau khi đánh giá về ông, đều giành những cho ông những lời kính trọng để khen ngợi về đạo cao, đức trọng của một người bậc Thày có kiến thức uyên thâm, rất quý trọng nhân tài và tinh thần dân tộc yêu nước thương dân của ông.