Nằm giữa lưng chừng núi ở thôn Tấu Trên, xã Trạm Tấu đàn lợn đen bản địa của người Mông của anh Mùa A Chờ ngày nào cũng tự do chạy nhảy trong khoảng đất rộng gần nhà. Không xây chuồng kiên cố, cũng chẳng cần nhốt chuồng kín mít, lợn được thả nuôi bán tự nhiên, con nào con nấy béo tròn, chũn chĩn như củ khoai, củ sắn.
Đàn lợn đen bản địa của người Mông được anh Mùa A Chờ nuôi trên khoảng đất rộng không cần xây chuồng kiên cố. Ảnh: Thanh Ngà.
Anh Mùa A Chờ bắt đầu gắn bó với nghề nuôi lợn từ năm 2015. Thay vì chạy theo mô hình chăn nuôi công nghiệp như nhiều hộ khác, anh chọn quay về với giống lợn Mông, giống lợn truyền thống gắn bó bao đời với đồng bào dân tộc mình. Lợn đen bản địa của người Mông có đặc điểm dễ nhận biết: tai nhỏ, thân ngắn, người tròn trịa, nhiều mỡ nhưng thịt thì thơm lừng, ăn một lần là nhớ mãi.
“Trước đây bà con mình hay thả rông lợn trong rừng, nuôi kiểu tự nhiên. Giờ thì mình quây đất lại, nuôi theo kiểu bán thả. Vừa giữ được giống lợn tốt, lại vừa dễ chăm sóc,” anh Chờ chia sẻ.
Lợn đen bản địa của người Mông có đặc điểm tai nhỏ, thân ngắn, người tròn trịa. Ảnh: Thanh Ngà.
Anh Chờ không xây chuồng kiên cố, chỉ dựng một mái che đơn giản để chắn mưa nắng, nhất là khi lợn mẹ đẻ con. Thức ăn cho lợn cũng chẳng cầu kỳ, toàn là những thứ có sẵn trong thôn như: chuối, ngô, sắn, lúa…được nấu chín. Nuôi kiểu tự nhiên vậy mà mỗi lứa sau 5-7 tháng, con nào cũng nặng xấp xỉ 60-70 kg.
Vừa nuôi vừa chọn giống, năm nào anh Chờ cũng để lại vài con nái khỏe mạnh để nhân đàn. Nhờ vậy mà đến giờ, đàn lợn nhà anh đã lên tới gần 40 con. Trong đó có 5 con nái đang cho sinh sản, 1 con đực giống, mấy con lợn thịt đã tới ngày xuất chuồng, thêm lứa con mới tách mẹ chưa lâu và cả đàn lợn nhỏ chừng 20 ngày tuổi.
Không dùng cám công nghiệp, không chất tăng trọng, anh Chờ luôn tin tưởng cách chăn nuôi truyền thống sẽ tạo ra con lợn chắc thịt, giữ trọn hương vị núi rừng. “Khách quen cứ gọi hỏi liên tục, có lúc không có hàng để bán. Người ta ăn rồi mới biết quý con lợn bản địa”, anh nói.
Anh Chờ chủ động lai giống để tạo ra những con lai có nhiều nạc hơn, đáp ứng thị hiếu khách hàng. Ảnh: Thanh Ngà.
Cũng vì nhiều người chê lợn mỡ, anh chủ động lai giống để tạo ra những con lai có nhiều nạc hơn, đáp ứng thị hiếu. Dù vậy, con giống thuần Mông vẫn là “đặc sản” được ưa chuộng nhất.
Giá lợn hơi bản địa hiện cao hơn đáng kể so với lợn nuôi theo hướng công nghiệp với mức trung bình khoảng 80.000 đồng/kg. Riêng lợn con trọng lượng từ 10 đến 30 kg có thể bán với giá từ 130.000 đến 140.000 đồng/kg. Trong khi đó, lợn nuôi bằng cám công nghiệp chỉ dao động từ 50.000 đến 70.000 đồng/kg.
Trung bình mỗi năm, sau khi trừ chi phí, anh lãi khoảng 80 triệu đồng từ chăn nuôi lợn. Con số này tuy chưa lớn nhưng đều đặn và ổn định, lại đến từ chính nỗ lực giữ gìn giống tốt và cách làm nông biết tính toán.
“Cái quý nhất là giống lợn đen được nuôi theo cách truyền thống nên mọi người tin tưởng lắm. Mình nuôi không nhiều nhưng bán lúc nào cũng hết. Nhiều khi lợn không có để bán chứ không phải không bán được,” anh Chờ phấn khởi chia sẻ.
Giá lợn hơi bản địa hiện cao hơn đáng kể so với lợn nuôi theo hướng công nghiệp với mức trung bình khoảng 80.000 đồng/kg. Ảnh: Thanh Ngà.
Chăn nuôi nơi vùng cao cũng đối mặt không ít khó khăn. Hạn chế lớn nhất là quỹ đất ít, địa hình đồi núi dốc khiến việc mở rộng chuồng trại gặp nhiều trở ngại. Bên cạnh đó, nguồn thức ăn tự nhiên như chuối rừng ngày càng khan hiếm buộc anh phải chủ động trồng thêm để đảm bảo nguồn thức ăn cho đàn lợn.
Không chỉ đối mặt với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, anh Chờ còn chủ động phòng chống dịch bệnh cho đàn lợn. Trong thời điểm dịch tả lợn Châu Phi bùng phát ở nhiều nơi, đàn lợn của anh vẫn an toàn nhờ thực hiện các biện pháp phòng dịch nghiêm ngặt. Anh thường xuyên dọn dẹp khu vực chăn nuôi, rắc vôi bột, tro bếp và giữ vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, hạn chế tối đa nguy cơ lây nhiễm.
Thời gian tới, anh Chờ dự tính mở rộng đàn nái lên 10 con nhằm chủ động nguồn giống và tăng số lượng cung cấp cho thị trường. Tuy nhiên, anh khẳng định sẽ không chạy theo số lượng mà chú trọng giữ vững chất lượng để duy trì uy tín từ cách nuôi truyền thống.
“Mình là người Mông, giống lợn Mông là của tổ tiên để lại. Nuôi được, bán được lại giữ được cái gốc của mình là mừng rồi”, anh Chờ tâm sự.
Không quảng bá rầm rộ, mô hình chăn nuôi lợn đen của anh Mùa A Chờ vẫn âm thầm phát triển. Từ đàn lợn nhỏ ban đầu, anh không chỉ tạo thêm nguồn thu nhập ổn định mà còn góp phần bảo tồn giống vật nuôi bản địa, một hướng làm kinh tế gắn với việc gìn giữ văn hóa và bản sắc dân tộc.



























