Tôi và Cường học với nhau từ cấp một, hai rồi ba. Hơn nữa về họ hàng Cường là chú nên tình bạn của chúng tôi càng trở nên bền vững. Tốt nghiệp cấp ba tôi thi đỗ một trường tận Sài Gòn, còn Cường đỗ ĐH Công nghiệp Thái Nguyên.
Đôi ngả chia tay. Gần mười năm học, ra trường rồi xin luôn công việc tại miền Nam nên tôi ít có điều kiện về thăm quê. Và cũng gần mười năm tôi cũng chưa có cơ hội gặp Cường và gia đình bạn, đặc biệt là bố Cường - ông Xuyên. Trong cuộc đời tôi, hai người ảnh hưởng nhiều nhất đến sự nghiệp và lý tưởng của tôi đó là bố tôi và ông Xuyên. Ông đã hun đúc cho tôi và Cường nuôi ý chí vào con đường học hành. Vốn là một sĩ quan quân đội thời kháng chiến chống Mỹ, chiến đấu ở mặt trận Quảng Trị rồi sang nước bạn Lào, 10 năm ròng rã ở chiến trường sống giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc nên ông luôn khao khát một cuộc sống đời thường. Hòa bình lập lại ông đã từ chối tất cả công tác mà tổ chức phân công chỉ với nguyện vọng được xin ra quân với lý do đơn giản: Về để bù đắp cho bố mẹ, và đặc biệt người vợ trẻ cưới nhau được 5 ngày để rồi phải sống trong nhớ nhung, lo lắng hàng chục năm ông ở ngoài mặt trận.
Cuộc sống của nhà nông khốn khó trăm bề. Rồi liền một mạch vợ ông sinh luôn ba anh em Cường. Nỗi vất vả càng chồng chất. Nhưng với nghị lực của một người lính và sự đồng lòng của vợ chồng kinh tế gia đình ông cũng tạm ổn. Ông vẫn thường bảo Cường và tôi: Đời bố vất vả bao nhiêu cũng được miễn là các con, các cháu học hành nên người. Những lúc mưa nông nhàn ông lại kể cho tôi và Cường nghe chuyện chiến trường. Tôi còn nhớ như in câu nói của ông: Thế hệ các ông lý tưởng sống là được cầm súng ra chiến trường giết giặc, nhưng thời nay lý tưởng sống phải là sự nghiệp học hành, cống hiến trí tuệ cho đất nước.
Lần này, được nghỉ phép dài, biết là Cường không có nhà nhưng tôi vẫn đến nhà chơi với mục đích thăm hỏi ông Xuyên. Ba gian nhà ngói vẫn như cũ nhưng có vẻ già cỗi do thời gian. Bên trong có vẻ tuềnh toàng hơn thời xưa. Thứ giá trị nhất trong ngôi nhà vẫn là chiếc tủ chè đựng đầy những bằng khen về thành tích học tập của ba anh em Cường. Tôi đang loay hoay nhìn trước ngó sau vì không thấy có ai trong nhà thì nghe có tiếng bước chân. Ngoảnh mặt lại tôi thấy một người đàn ông bê rổ bèo tây cho lợn lấp hết cả người mình. Nhìn kỹ thì ra ông Xuyên. Vẫn dáng người nhỏ thó, nhưng cứng cáp. Thấy tôi ông nhận ra ngay. Đặt vội rổ bèo xuống đất, hai tay lau vào vạt áo màu nâu cũ ông kéo tôi vào nhà.
- Thế chú út đâu mà không giúp ông? - tôi hỏi.
- Chú đi học đại học Thủy lợi được 2 năm rồi. Nhà giờ có còn ai đâu.
Tôi à một tiếng ngỡ ngàng vì đúng là thời gian trôi đi quá nhanh. Thế là chú út cũng đã là một sinh viên đại học. Qua câu chuyện của bao năm xa nhà tôi mới thấu hiểu được nỗi vất vả của ông. Một mình làm lụng, xoay sở nuôi 3 con ăn học. Đã có lúc đến bước đường cùng không còn vay nợ được ai ông đã nghĩ đến việc bán một phần đất của tổ tiên ông bà để lại lấy tiền nuôi con. Cuộc sống của ông tần tảo quanh năm rau mắm. Vì kham khổ, lại làm quá sức nên bà Xuyên đã đổ bệnh. Ba năm ròng thuốc thang giờ mới thuyên giảm. Ngôi nhà không còn gì là chút tài sản có giá trị. Tôi đang suy tư cảm phục vì một tấm gương về một người cha hết lòng vì con cái, một người chồng hết lòng vì vợ, một người đàn ông hết lòng vì gia đình mà có lẽ hiếm gặp thì ông Xuyên cười giòn tan.
- Cũng may đến khi mình định bán đất để nuôi hai chú sau ăn học thì Cường xin được việc làm lương cũng khá nên nuôi đỡ được một phần cho các em.
Khuôn mặt ông rạng ngời khi chỉ vào những tấm bằng khen về thành tích học tập của ba người con.
Nam Phương