Chủ động chuyển đổi theo định hướng lớn của Nhà nước
Dù hiện nay ngành cao su chưa thuộc nhóm ngành bắt buộc phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo Luật Bảo vệ môi trường, song, nhiều doanh nghiệp đã chủ động triển khai theo hướng tự nguyện, coi đây là bước chuẩn bị cần thiết để sẵn sàng tham gia thị trường các-bon khi cơ chế vận hành chính thức được hoàn thiện.
Tại Bình Phước, Công ty TNHH MTV Cao su Bình Long là một trong những đơn vị sớm tiếp cận xu hướng này. Doanh nghiệp đang tập trung xây dựng mô hình sản xuất gắn với giảm phát thải và các chương trình quản lý đổi mới công nghệ trong trồng trọt, chế biến đồng bộ. Mục đích hướng tới tiết kiệm năng lượng, giảm ô nhiễm môi trường và tăng khả năng hấp thụ các-bon của rừng cao su.
Đặc biệt, Cao su Bình Long đã bắt đầu thực hiện kiểm kê khí nhà kính cho toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, một bước quan trọng để chuẩn bị tham gia thị trường các-bon trong tương lai. Công ty cũng hướng đến xây dựng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO về phát thải, phù hợp mục tiêu quốc gia về phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Theo ông Bùi Đình Bảy, Phó Tổng Giám đốc Công ty, việc kiểm kê phát thải giúp doanh nghiệp trước hết nhận diện đầy đủ nguồn phát sinh khí nhà kính, từ đó có giải pháp quản lý phù hợp, đồng thời tạo nền tảng dữ liệu phục vụ các yêu cầu minh bạch môi trường ngày càng khắt khe từ thị trường xuất khẩu.
Cao su Bình Long chuyển mình theo hướng phát triển xanh. Ảnh: Đình Du.
Tại các nông trường, công tác vệ sinh lô cây, thu gom chất thải rắn, xử lý nước thải đều được thực hiện nghiêm ngặt. Nước thải từ sản xuất được đưa qua hố gạn để tận thu mủ còn sót lại trước khi xử lý tập trung, vừa giảm ô nhiễm môi trường, vừa góp phần tiết kiệm tài nguyên. Những giải pháp này giúp doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, đồng thời phù hợp với xu hướng sản xuất các-bon thấp.
Đáng chú ý, doanh nghiệp cũng đang từng bước nghiên cứu khả năng xây dựng dự án tín chỉ các-bon từ rừng cao su. Công ty đã có những nghiên cứu chuyên sâu, bao gồm phân tích khả năng hấp thụ CO₂, xây dựng cơ sở dữ liệu phát thải và hấp thụ, chuẩn hóa quy trình để đáp ứng các tiêu chuẩn tín chỉ trên thị trường các-bon tự nguyện quốc tế, và thị trường nội địa trong tương lai. Lãnh đạo công ty xác định, việc chủ động từ sớm sẽ giúp rút ngắn thời gian chuẩn bị và tạo lợi thế khi thị trường trong nước chính thức vận hành.
Từ rừng trồng bền vững đến nền tảng dữ liệu minh bạch
Tại Đồng Nai, Tổng Công ty Cao su Đồng Nai cũng đang triển khai mạnh mẽ hành trình chuyển đổi xanh dựa trên ba trụ cột: quản lý rừng bền vững, kiểm kê phát thải và chuyển đổi số.
Trên những lô cao su của Nông trường Bình Lộc, công nhân vẫn miệt mài lao động theo nhịp cạo mủ quen thuộc. Với nhiều người, nghề cạo mủ đã trở thành sinh kế ổn định suốt hàng chục năm, trong khi hệ thống quản lý rừng và sản xuất đã có nhiều thay đổi căn bản nhờ ứng dụng công nghệ.
Hiện nay, Tổng Công ty Cao su Đồng Nai đang quản lý hơn 33.000 ha rừng cao su. Toàn bộ diện tích này đã được chứng nhận quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn VFCS/PEFC-FM. Đây là nền tảng quan trọng để doanh nghiệp bảo đảm tính minh bạch trong quản lý tài nguyên rừng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm và đáp ứng các yêu cầu về chống phá rừng từ thị trường quốc tế.
Tổng Công ty Cao su Đồng Nai đang quản lý hơn 33.000 ha rừng cao su, được chứng nhận quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn VFCS/PEFC-FM. Ảnh: Trần Phi.
Từ nền tảng quản lý rừng bền vững, doanh nghiệp triển khai kiểm kê khí nhà kính trên toàn bộ chuỗi sản xuất, từ trồng trọt, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển đến chế biến. Các số liệu phát thải được thu thập để hình thành bộ cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh, phục vụ công tác quản lý nội bộ và chuẩn bị cho việc tham gia các cơ chế thị trường các-bon khi đủ điều kiện pháp lý.
Theo ông Trần Thanh, Giám đốc Xí nghiệp Chế biến của Tổng Công ty, việc kiểm kê này không phải là nghĩa vụ bắt buộc theo pháp luật hiện hành, mà là bước đi chủ động để doanh nghiệp làm quen với phương thức quản lý phát thải dựa trên dữ liệu, phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế xanh.
“Với diện tích rừng lớn, chúng tôi có tiềm năng nghiên cứu các dự án hấp thụ các-bon trong tương lai. Tuy nhiên, để tạo ra tín chỉ các-bon hợp pháp còn cần một quy trình rất chặt chẽ, từ phương pháp đo đạc đến thẩm tra độc lập”, ông Thanh nhấn mạnh.
Chuyển đổi số phục vụ quản lý giảm phát thải trong tương lai
Một trong những điểm nổi bật trong quá trình chuyển đổi xanh của Cao su Đồng Nai là ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số vào quản lý rừng và sản xuất.
Chỉ với một chiếc điện thoại thông minh, cán bộ kỹ thuật có thể theo dõi toàn bộ thông tin của từng lô cao su thông qua ứng dụng nội bộ. Từ mật độ cây, năm trồng, tình trạng sâu bệnh đến năng suất khai thác đều được cập nhật theo thời gian thực. Nhờ đó, công tác kiểm tra thực địa được rút ngắn đáng kể, giúp lãnh đạo doanh nghiệp ra quyết định nhanh và chính xác hơn.
Không dừng lại ở đó, phần mềm DNRC-Traceability do chính doanh nghiệp phát triển cho phép truy xuất toàn bộ hành trình sản phẩm, từ người cạo mủ, thời điểm thu hoạch, vận chuyển, chế biến đến lưu kho. Đây là yếu tố then chốt giúp công ty đáp ứng yêu cầu của Quy định chống phá rừng của Liên minh châu Âu (EUDR), giúp xác định các sản phẩm có nguồn gốc từ rừng khi xuất khẩu vào châu Âu.
Nhờ sự chuẩn bị bài bản về dữ liệu và truy xuất nguồn gốc, những lô hàng cao su đầu tiên của Đồng Nai đã được xuất khẩu sang châu Âu từ tháng 7/2024 và thông quan thuận lợi.
Ở khâu chế biến, doanh nghiệp đẩy mạnh tự động hóa dây chuyền, áp dụng vi sinh trong xử lý nước thải, giảm tiêu hao năng lượng và hạn chế phát thải thứ cấp. Mục tiêu đến năm 2026, toàn bộ nước thải đạt chuẩn sẽ được tái sử dụng, tiến tới mô hình tuần hoàn tài nguyên.
Việc chuyển đổi số và quản lý rừng bền vững sẽ giúp ngành cao su nâng cao năng lực cạnh tranh. Ảnh: Trần Phi.
Theo ông Chu Đăng Khoa, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Cao su Đồng Nai, chính hệ thống dữ liệu minh bạch từ chuyển đổi số là điều kiện tiên quyết nếu doanh nghiệp muốn tham gia sâu hơn vào các cơ chế thị trường các-bon trong tương lai, bởi mọi hoạt động giảm phát thải hay hấp thụ các-bon đều phải được chứng minh bằng số liệu cụ thể, liên tục và có thể thẩm tra.
Trong dài hạn, khi thị trường các-bon trong nước chính thức vận hành, những doanh nghiệp đã làm chủ được dữ liệu phát thải, quản lý rừng minh bạch và công nghệ số sẽ có lợi thế rõ rệt. Khi đó, tín chỉ các-bon sẽ trở thành một nguồn giá trị gia tăng bổ sung, bên cạnh giá trị truyền thống của sản phẩm mủ cao su.
Quan trọng hơn, việc chủ động kiểm kê phát thải, chuyển đổi số và quản lý rừng bền vững sẽ giúp các doanh nghiệp cao su nâng cao năng lực cạnh tranh tổng thể, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường ngày càng cao từ các thị trường lớn, đồng thời đóng góp thiết thực cho cam kết đưa phát thải ròng về “0” của Việt Nam sau COP26.

![Huế hướng đến Net Zero: [Bài 2] Tiên phong du lịch giảm phát thải](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/256w/files/content/2025/11/29/495540302_722174576808441_3099604530209369329_n-100209_913-161126.jpg)

![Huế hướng đến Net Zero: [Bài 3] Tạo nền móng công nghiệp xanh](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/content/2025/12/01/cn-xanh-hue-5-102330_797-081540.jpg)



![Huế hướng đến Net Zero: [Bài 2] Tiên phong du lịch giảm phát thải](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/content/2025/11/29/495540302_722174576808441_3099604530209369329_n-100209_913-161126.jpg)




















