Khoản 1 điều 53 dự thảo Nghị định mới quy định “Phạt tiền từ 1 đến 1,5 triệu đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình”, còn điểm a, khoản 2, điều 53 dự thảo thì quy định “Phạt tiền từ 1,5 đến 2 triệu đồng đối với hành vi sử dụng hung khí đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình”.
>> Nhiều điều chưa dễ thực hiện
Thương tích chỉ có thể được xác định bằng tỷ lệ phần trăm. Không có phần trăm nào nghĩa là không gây thương tích. Hung khí, tức là những vật gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khoẻ con người như dao, gậy, gạch đá... Thành viên gia đình cũng là người khác đối với người đánh đập hay dùng hung khí gây thương tích.
Vậy đánh đập hay dùng hung khí gây nên tỷ lệ thương tích bao nhiêu phần trăm thì là hành vi vi phạm hành chính? Bao nhiêu phần trăm thì bị coi là cấu thành tội “Cố ý gây gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ cho người khác” được quy định tại điều 104 Bộ luật Hình sự?
Tại khoản 1 điều 104 Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tỷ lệ thương tích được xác định để truy cứu trách nhiệm hình sự là từ 11% đến dưới 30%.
Tuy nhiên, tại điểm d, điểm đ và điểm i của khoản 1 điều 104 cũng lại quy định rằng nếu gây tỷ lệ thương tích dưới 11% (tức là từ 1 đến 10,99%) nhưng là “Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; đối với ông bà, cha mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm” thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ông Hoàng Văn Xuân, Trưởng thôn Đồng Tâm (Đông Hà, Đông Hưng, Thái Bình): Bạo lực gia đình biểu hiện dưới rất nhiều hình thức, nhưng rất khó phạt
Những thành viên gia đình mà đối tượng vi phạm trong lĩnh vực bạo hành gia đình (BLGĐ) thường đánh đập hay dùng hung khí gây thương tích cho họ là trẻ con (con hay cháu của đối tượng vi phạm), phụ nữ (vợ của đối tượng) và người già yếu (bố mẹ hoặc ông bà của đối tượng). Đó đều là những người không có khả năng tự vệ...
Quy định như vậy rõ ràng là xoá nhoà ranh giới giữa hành vi vi phạm hành chính và hành vi có dấu hiệu cấu thành tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác”, khiến cho người có thẩm quyền xử phạt hoặc là rất lúng túng trong việc vận dụng những quy định trong nghị định để xử phạt, hoặc là thích thì coi đó là vi phạm hành chính, chỉ xử phạt, còn không thích thì có thể khởi tố theo quy định tại các điểm trên của khoản 1 điều 104 Bộ luật Hình sự để truy tố trước toà.
Quy định như vậy cũng dễ khiến nảy sinh tiêu cực. Đối tượng vi phạm có thể “chạy” để biến hành vi cấu thành tội “Cố ý gây thương tích...” cho thành viên gia đình được quy định tại các điểm trên của điều 104 Bộ luật Hình sự thành hành vi vi phạm hành chính, hoặc trước một hành vi vi phạm, người có thẩm quyền xử phạt có thể “doạ” sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 104 để buộc đối tượng vi phạm phải cống nạp nếu muốn được coi đó là vi phạm hành chính.
Muốn được coi là “bị gây thương tích” thì nạn nhân BLGĐ phải được cơ quan chức năng giám định, kết luận. Theo quy định hiện hành, thì chỉ cơ quan Cảnh sát điều tra công an từ cấp huyện, quận trở lên mới có thẩm quyền ra quyết định trưng cầu giám định thương tích.
Và chỉ sau khi có kết luận giám định của cơ quan chức năng về tỷ lệ thương tích, thì người có thẩm quyền xử phạt mới có căn cứ để ra quyết định xử phạt. Chẳng lẽ mỗi lần phát hiện hành vi vi phạm hành chính là đánh đập hay dùng hung khí đánh đập thành viên trong gia đình, người có thẩm quyền xử phạt lại phải có văn bản đề nghị cơ quan Cảnh sát điều tra ra quyết định trưng cầu giám định?
Và ai đưa người bị đánh đập, bị hành hung đi giám định? Kinh phí đưa người bị đánh đập, hành hung đi giám định lấy từ nguồn nào? Từ khi có quyết định trưng cầu giám định đến khi có kết luận giám định, thời gian không phải là ngắn. Việc đi lại giám định tốn kém, liệu có thành viên gia đình nào khi bị đánh đập hay dùng hung khí gây thương tích muốn đi giám định?
Nhất là họ biết rõ việc giám định đó là để xử phạt người thân của mình (dù đó là người đã gây thương tích cho mình), gây tổn hại đến kinh tế của chính cái gia đình mà họ là thành viên?
Khoản 1 điều 110 Bộ luật Hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (tội hành hạ người khác) quy định “Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoạc bị phạt tù từ ba tháng đến 2 năm”.
Còn phạm tôi đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật, với nhiều người, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm, theo quy định tại khoản 2 điều luật trên.
Thế nào là hành hạ? Thế nào là đối xử tàn ác? Hành hạ, đối xử tàn ác gây ra hậu quả thế nào cho người lệ thuộc mình thì bị xử lý theo quy định của điều luật trên? Không lượng hoá được hậu quả thì làm sao có thể truy cứu trách nhiệm hình sự được? Tất cả những điều đó, điều 110 Bộ luật Hình sự đều không quy định rõ.
Tương tự như vậy, khoản 1 điều 54 Nghị định mới cũng quy định rằng “thường xuyên gây tổn hại về sức khoẻ, gây tổn thương về tinh thần đối với thành viên gia đình” là hành vi hành hạ, ngược đãi, với mức phạt từ 1 đến 1,5 triệu đồng.
Gây tổn hại về sức khoẻ, gây tổn thương về tinh thần cho thành viên gia đình là tàn ác chứ còn gì nữa? Điều 110 Bộ luật Hình sự và khoản 1 điều 54 Nghị định mới rõ ràng đã bị trộn lẫn vào nhau, rất khó phân biệt.
Ngoài việc bị trộn lẫn vào với điều 110 Bộ luật Hình sự, khoản 1 điều 54 Nghị định mới còn bị vướng về căn cứ xử phạt. Muốn biết thành viên gia đình bị hành hạ, ngược đãi có bị “tổn hại về sức khoẻ, tổn thương về tinh thần” hay không, cũng phải qua giám định. Mà giám định thì như phần trên đã nói, rất khó khăn. Và cũng rất dễ nảy sinh tiêu cực.
Điểm d, khoản 2, điều 55 Nghị định mới quy định phạt tiền từ trên 1,5 đến 2 triệu đồng đối với hành vi “Cưỡng ép thành viên gia đình lột bỏ quần áo trước mặt người khác hoặc nơi công cộng”.
Còn khoản 1 điều 121 Bộ luật Hình sự (tội làm nhục người khác) thì quy định: "Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến 2 năm”.
Cưỡng ép vợ hay chồng, cưỡng ép con gái lớn, cưỡng ép bố hay mẹ lột bỏ quần áo trước mặt người khác hoặc nơi công cộng (là nơi có rất đông người), có phải là xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của họ không?
Tất cả các vụ vì đánh ghen hay bất cứ lý do nào khác, những kẻ tự lột quần áo người khác hoặc cưỡng bức người khác lột bỏ quần áo trước mặt người khác hoặc giữa nơi công cộng đều bị công an khởi tố về tội danh “Làm nhục người khác” theo điều 121 Bộ luật Hình sự. (còn nữa)