| Hotline: 0983.970.780

Liên kết liên vùng trong vận hành hệ thống thủy lợi để phòng, chống thiên tai

Thứ Tư 31/12/2025 , 07:19 (GMT+7)

ĐBSCL cần có cơ chế phối hợp, liên kết vùng trong vận hành hệ thống thủy lợi, nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước và chủ động phòng chống thiên tai.

Không gian thủy văn liên thông

Khu vực ĐBSCL là một không gian thủy văn liên thông chặt chẽ, nơi mọi biến động về dòng chảy, mực nước hay chất lượng nguồn nước đều có khả năng lan tỏa trên diện rộng. Từ thượng nguồn sông Tiền, sông Hậu đến các cửa biển và dải ven biển Tây, các hệ thống thủy lợi không tồn tại độc lập mà luôn tác động qua lại hữu cơ với nhau.

ĐBSCL là một không gian thủy văn liên thông chặt chẽ, nơi mọi biến động về dòng chảy, mực nước hay chất lượng nguồn nước đều có khả năng lan tỏa trên diện rộng. Ảnh: Trung Chánh.

ĐBSCL là một không gian thủy văn liên thông chặt chẽ, nơi mọi biến động về dòng chảy, mực nước hay chất lượng nguồn nước đều có khả năng lan tỏa trên diện rộng. Ảnh: Trung Chánh.

Trong nhiều năm, công tác vận hành thủy lợi ở ĐBSCL chủ yếu dựa trên từng hệ thống, từng địa phương riêng lẻ. Cách tiếp cận này phù hợp khi điều kiện tự nhiên còn ổn định, thiên tai diễn biến theo quy luật quen thuộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, hạn hán, xâm nhập mặn, triều cường và mưa cực đoan xuất hiện với tần suất dày hơn, tư duy cục bộ đã bộc lộ rõ những hạn chế.

Thực tế cho thấy, việc vận hành một hệ thống thủy lợi có thể ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực khác. Khi công trình kiểm soát mặn đóng - mở không phù hợp, nguy cơ xâm nhập mặn có thể lan sang vùng lân cận. Ngược lại, nếu tiêu thoát nước thiếu điều phối đồng bộ, ngập úng cục bộ có thể xảy ra ngay trong mùa mưa. Những tác động dây chuyền này cho thấy quản lý nguồn nước không thể dừng ở phạm vi hành chính riêng lẻ.

Do ĐBSCL là một không gian thủy văn liên thông, nên việc điều tiết nước của hệ thống này cần sự hỗ trợ của hệ thống khác, mới phát huy tối đa hiệu quả công trình. Ảnh: Trung Chánh.

Do ĐBSCL là một không gian thủy văn liên thông, nên việc điều tiết nước của hệ thống này cần sự hỗ trợ của hệ thống khác, mới phát huy tối đa hiệu quả công trình. Ảnh: Trung Chánh.

“Các hệ thống thủy lợi lớn như Cái Lớn - Cái Bé, Quản Lộ - Phụng Hiệp, Ô Môn - Xà No, Tứ giác Long Xuyên hay các tuyến đê, cống ven biển Tây có mối liên hệ chặt chẽ. Trong những thời điểm hạn mặn lên cao, việc điều tiết nước của hệ thống này cần sự hỗ trợ của hệ thống khác. Nếu thiếu phối hợp, mỗi địa phương có thể bảo vệ được “phần mình” trong ngắn hạn nhưng lại vô tình đẩy rủi ro sang khu vực kế cận, làm gia tăng thiệt hại chung cho toàn vùng”, ông Lê Tường Minh, Phó Giám đốc Chi nhánh ĐBSCL Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi miền Nam cho biết.

Những mùa hạn mặn khốc liệt trong thập kỷ qua đã chỉ ra điểm nghẽn lớn của thủy lợi ĐBSCL: “Thiếu một cơ chế điều phối liên vùng đủ mạnh. Không ít thời điểm, việc điều tiết nước rơi vào thế bị động, xử lý theo tình huống, khiến hiệu quả của các công trình lớn chưa được phát huy đúng vai trò trong những thời khắc then chốt.

Cơ chế phối hợp liên vùng

Từ thực tế đó, yêu cầu chuyển mạnh từ vận hành cục bộ sang điều phối liên vùng, liên hệ thống trở nên cấp thiết. Trọng tâm là xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi và chính quyền các địa phương trên cùng một không gian thủy văn.

Cống Tha La - Trà Sư được vận hành theo cơ chế phối hợp, giúp các địa phương hạn chế xung đột trong khai thác nguồn nước, phòng chống thiên tai hiệu quả. Ảnh: Trung Chánh.

Cống Tha La - Trà Sư được vận hành theo cơ chế phối hợp, giúp các địa phương hạn chế xung đột trong khai thác nguồn nước, phòng chống thiên tai hiệu quả. Ảnh: Trung Chánh.

Nguyên tắc nền tảng trong điều phối liên vùng là tuân thủ nghiêm các quy trình vận hành đã được cấp thẩm quyền phê duyệt. Quy trình không chỉ là căn cứ kỹ thuật mà còn là “khung lợi ích chung”, giúp các địa phương vận hành hài hòa, hạn chế xung đột trong khai thác nguồn nước. Trên cơ sở đó, việc thường xuyên trao đổi thông tin về kế hoạch vận hành theo mùa, theo tháng, chia sẻ dữ liệu khí tượng thủy văn, diễn biến nguồn nước và tiến độ sản xuất của từng vùng trở thành yếu tố quyết định.

Một yêu cầu quan trọng khác là xây dựng quy trình vận hành tích hợp cho các hệ thống thủy lợi liên tỉnh. Quy trình này đóng vai trò như “bản đồ điều phối” trong những tình huống bất lợi nhất, khi nhiều rủi ro cùng lúc xuất hiện như hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn sâu và triều cường dâng cao. Vận hành tích hợp không thay thế vai trò của từng hệ thống, mà giúp các công trình hỗ trợ lẫn nhau, phát huy hiệu quả tổng thể thay vì hoạt động rời rạc.

Thiếu hụt nguồn nước dẫn đến sụt lún, làm hư hỏng cơ sở hạ tầng tại tỉnh An Giang. Ảnh: Trung Chánh.

Thiếu hụt nguồn nước dẫn đến sụt lún, làm hư hỏng cơ sở hạ tầng tại tỉnh An Giang. Ảnh: Trung Chánh.

Song song đó, hiện đại hóa công tác quản lý, vận hành hệ thống thủy lợi là xu hướng tất yếu. Việc ứng dụng công nghệ số, tự động hóa, giám sát từ xa và hệ thống cảnh báo sớm giúp các đơn vị quản lý có cái nhìn tổng thể, cập nhật kịp thời diễn biến nguồn nước. Khi dữ liệu được kết nối và chia sẻ, quyết định điều tiết dựa trên thông tin khoa học và dự báo đáng tin cậy, thay vì phụ thuộc vào kinh nghiệm đơn lẻ.

Công tác truyền thông và nâng cao nhận thức cộng đồng cũng giữ vai trò quan trọng trong điều phối liên vùng. Khi người dân nắm rõ nguyên tắc vận hành các công trình thủy lợi và thông tin cảnh báo sớm, họ sẽ chủ động hơn trong sản xuất và sinh hoạt, hạn chế các hành vi tự phát gây cản trở dòng chảy và làm giảm hiệu quả điều tiết.

Về lâu dài, liên kết liên vùng trong vận hành thủy lợi không chỉ nhằm ứng phó với thiên tai trước mắt, mà còn là nền tảng cho chiến lược phát triển bền vững của ĐBSCL. Khi nguồn nước được quản lý thống nhất, sản xuất nông nghiệp và sinh kế ven sông, ven biển có cơ sở để thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư hạ tầng thủy lợi.

Xem thêm
Liên kết liên vùng trong vận hành hệ thống thủy lợi để phòng, chống thiên tai