Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động rõ nét tới sản xuất nông nghiệp, đặc biệt tại khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, nơi thường xuyên đối mặt với hạn hán, thiếu nước và suy giảm nguồn nước mặt, việc phát triển các hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho cây trồng cạn không còn là lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay không nằm ở công nghệ, mà ở khả năng huy động và tổ chức hiệu quả các nguồn lực xã hội hóa để công nghệ có thể đi vào thực tiễn, được người dân tiếp nhận, vận hành và duy trì bền vững.
ThS Nguyễn Văn Kiên, Trung tâm Tư vấn quản lý thủy nông có sự tham gia của người dân (Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam). Ảnh: Phạm Hoài.
Diễn đàn “Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chiến lược trong phát triển tưới tiên tiến, tiết kiệm nước cho cây trồng cạn phục vụ nông nghiệp thông minh, ứng phó biến đổi khí hậu, góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên”, sáng 29/12, đã chỉ ra một cách hệ thống những vấn đề cốt lõi trong quá trình triển khai chính sách, đồng thời đề xuất cách tiếp cận mới, lấy người dân làm trung tâm của quá trình đầu tư và khai thác hệ thống tưới.
Theo phân tích của ThS Nguyễn Văn Kiên, Trung tâm tư vấn quản lý thủy nông có sự tham gia của người dân (Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam), các công nghệ tưới tiên tiến như tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong thực tế sản xuất.
So với phương thức tưới truyền thống, các công nghệ này giúp tăng năng suất cây trồng cạn từ 10 - 30%, giảm chi phí lao động từ 20 - 50%, tiết kiệm 20 - 40% lượng nước tưới và giảm đáng kể lượng phân bón thất thoát ra môi trường. Những lợi ích này không chỉ cải thiện thu nhập cho nông dân mà còn góp phần quan trọng vào thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh nguồn nước.
Mặc dù vậy, tỷ lệ diện tích cây trồng cạn được áp dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước hiện nay vẫn còn rất thấp, mới đạt khoảng 7,3% tổng diện tích, và chủ yếu tập trung ở một số mô hình điểm do Nhà nước hỗ trợ. Khoảng cách lớn giữa mục tiêu của Chiến lược thủy lợi Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và thực tiễn triển khai cho thấy rõ những nút thắt trong khâu tổ chức thực hiện và huy động nguồn lực.
Một trong những điểm nghẽn lớn được chỉ ra là cách thức thực thi chính sách hỗ trợ. Dù Nghị định 77/2018/NĐ-CP quy định hỗ trợ phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng và tưới tiên tiến, tiết kiệm nước đã mở ra cơ chế xã hội hóa với nhiều ưu điểm so với các chính sách trước đó, song trên thực tế, nhiều địa phương vẫn thiếu kế hoạch cụ thể, chưa bố trí nguồn lực theo lộ trình rõ ràng, và công tác tuyên truyền, tập huấn mới dừng lại ở mức giới thiệu công nghệ. Điều này khiến nông dân khó tiếp cận chính sách, thiếu thông tin để tự tin đầu tư và còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ Nhà nước.
Khi người dân thực sự làm chủ quá trình đầu tư, tỷ lệ đóng góp của hộ dân có thể đạt trên 55%, hệ thống sau khi hoàn thiện được vận hành, bảo dưỡng tốt, và hiệu quả kinh tế - kỹ thuật được cảm nhận rõ ràng trong thực tế. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Từ thực tiễn triển khai thí điểm tại tỉnh Tuyên Quang, ông Kiên nhấn mạnh vai trò quyết định của việc thay đổi cách tiếp cận, từ mô hình “Nhà nước và nhân dân cùng làm” sang “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ”. Đây không chỉ là sự điều chỉnh về cơ chế tài chính, mà là sự thay đổi căn bản về tư duy phát triển. Trong mô hình này, người dân được tham gia ngay từ khâu lựa chọn công nghệ, thiết kế hệ thống, xác định chi phí, phân bổ trách nhiệm đầu tư và cam kết vận hành, bảo dưỡng sau đầu tư.
Kết quả tại Tuyên Quang cho thấy, khi người dân thực sự làm chủ quá trình đầu tư, tỷ lệ đóng góp của hộ dân có thể đạt trên 55%, hệ thống sau khi hoàn thiện được vận hành, bảo dưỡng tốt, và hiệu quả kinh tế - kỹ thuật được cảm nhận rõ ràng trong thực tế. Quan trọng hơn, các mô hình này đã tạo ra sức lan tỏa trong cộng đồng, trở thành “kênh tuyên truyền sống” hiệu quả hơn bất kỳ hình thức phổ biến chính sách nào.
ThS Nguyễn Văn Kiên cũng chỉ ra rằng, để huy động hiệu quả nguồn lực xã hội hóa, cần đặc biệt chú trọng khâu chuyển giao kỹ thuật theo phương pháp “cầm tay, chỉ việc”, giúp nông dân nắm vững kỹ năng thiết kế, lắp đặt, vận hành và sửa chữa hệ thống. Đây là yếu tố then chốt để giảm chi phí đầu tư, hạn chế phụ thuộc vào nhà thầu bên ngoài và bảo đảm tính bền vững lâu dài của công trình.
Bên cạnh đó, việc thiết lập mạng lưới hỗ trợ kỹ thuật sau đầu tư, kết nối giữa chính quyền địa phương, cơ quan chuyên môn, doanh nghiệp cung cấp vật tư thiết bị và các nhóm nông dân đi đầu là điều kiện không thể thiếu. Chính mạng lưới này sẽ giúp giải quyết kịp thời các vướng mắc kỹ thuật, đồng thời thúc đẩy chia sẻ kinh nghiệm, nhân rộng mô hình trong cộng đồng.
Từ những bài học thực tiễn, ông Kiên đề xuất các địa phương, đặc biệt tại Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, cần xây dựng kế hoạch triển khai tưới tiên tiến, tiết kiệm nước theo từng giai đoạn cụ thể, gắn với cây trồng chủ lực và khả năng đóng góp của người dân. Việc hỗ trợ ngân sách nên thực hiện sau khi hệ thống đã hoàn thành và đi vào vận hành, nhằm bảo đảm hiệu quả đầu tư và nâng cao trách nhiệm của chủ thể sử dụng.
















