| Hotline: 0983.970.780

Thủy lợi ĐBSCL: Đồng bộ hơn nhưng cần tư duy thích ứng dài hạn

Chủ Nhật 28/12/2025 , 10:43 (GMT+7)

Hệ thống thủy lợi ĐBSCL đã góp phần tăng trưởng nông nghiệp, song cũng đặt ra nhiều thách thức mới về ngập lụt, sạt lở và thích ứng biến đổi khí hậu.

Nền tảng cho tăng trưởng nông nghiệp

ĐBSCL là vùng đất đặc thù, nơi sự sống, sinh kế và phát triển kinh tế gắn chặt với dòng chảy sông nước. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, vai trò của các công trình thủy lợi càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, theo Thạc sĩ Trần Văn Hừng, Giám đốc Trung tâm Kiểm định và Tư vấn xây dựng (Đại học Cần Thơ), vấn đề không chỉ nằm ở quy mô đầu tư, mà còn ở sự đồng bộ, cách vận hành và khả năng thích ứng lâu dài của các công trình này.

Thạc sĩ Trần Văn Hừng, Giám đốc Trung tâm Kiểm định và Tư vấn xây dựng (Đại học Cần Thơ). Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Thạc sĩ Trần Văn Hừng, Giám đốc Trung tâm Kiểm định và Tư vấn xây dựng (Đại học Cần Thơ). Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Nhìn lại quá trình phát triển nhiều thập niên qua, Thạc sĩ Trần Văn Hừng cho rằng hệ thống thủy lợi ở Cần Thơ và nhiều địa phương ĐBSCL đã được đầu tư khá bài bản. Những tuyến kênh, đê bao, cống điều tiết được xây dựng liên tục từ sau năm 1975, đặc biệt tăng mạnh từ những năm 1990 đến sau năm 2000, đã tạo nên diện mạo mới cho sản xuất nông nghiệp vùng châu thổ.

“Nhờ hệ thống thủy lợi ngày càng hoàn chỉnh, diện tích canh tác được mở rộng, nhiều vùng trũng trước đây chỉ ngập nước theo mùa nay đã trở thành vùng sản xuất ổn định. Sản lượng nông nghiệp tăng lên rõ rệt, tạo nền tảng cho xuất khẩu và đóng góp lớn cho an ninh lương thực quốc gia”, ông Hừng đánh giá.

Các công trình kiểm soát mặn, giữ ngọt cũng giúp vùng ven biển và hạ lưu sông lớn từng bước thích ứng với xâm nhập mặn, nhất là trong các đợt hạn hán khốc liệt. Ở nhiều nơi, nước được điều tiết hợp lý, hạn chế tác động tiêu cực của mặn, phèn, bảo vệ cây trồng và sinh hoạt của người dân.

Tuy nhiên, theo Thạc sĩ Trần Văn Hừng, chính sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống thủy lợi cũng làm nảy sinh những vấn đề mới. Một trong những biểu hiện rõ nhất là tình trạng ngập úng gia tăng ở khu vực đô thị.

“Nếu như trước năm 2000, nhiều đô thị như Cần Thơ hầu như không bị ngập thì những năm gần đây, tình trạng ngập xuất hiện thường xuyên hơn, cả ở thành thị lẫn nông thôn”, ông phân tích. Nguyên nhân sâu xa, theo ông, là do việc khép kín đê bao trong sản xuất nông nghiệp. Khi nước lũ không còn không gian trữ tự nhiên trên đồng ruộng, lượng nước tập trung dồn về sông rạch và đô thị trong cùng một thời điểm, gây quá tải hệ thống thoát nước.

Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa nhanh chóng làm gia tăng diện tích bê tông hóa, giảm khả năng thấm nước tự nhiên, khiến ngập úng trở nên trầm trọng hơn khi mưa lớn hoặc triều cường.

Công trình thủy lợi quy mô lớn ở ĐBSCL phát huy vai trò kiểm soát mặn, giữ ngọt và điều tiết nguồn nước, góp phần ổn định sản xuất nông nghiệp nhưng cũng đặt ra yêu cầu vận hành linh hoạt, hài hòa sinh thái. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Công trình thủy lợi quy mô lớn ở ĐBSCL phát huy vai trò kiểm soát mặn, giữ ngọt và điều tiết nguồn nước, góp phần ổn định sản xuất nông nghiệp nhưng cũng đặt ra yêu cầu vận hành linh hoạt, hài hòa sinh thái. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Công trình lớn và bài toán vận hành linh hoạt

Từ khoảng năm 2015 đến nay, ĐBSCL được đầu tư nhiều công trình thủy lợi quy mô lớn, đặc biệt là các cống kiểm soát mặn, cửa sông lớn. Mục tiêu là chủ động ứng phó với các tình huống thời tiết cực đoan như xâm nhập mặn sâu, hạn hán kéo dài.

Theo Thạc sĩ Trần Văn Hừng, điểm nhấn của các công trình này là khả năng điều tiết linh hoạt: khi mặn xâm nhập sâu thì đóng cống để giữ ngọt, khi điều kiện thuận lợi thì mở để trao đổi nước. Tuy nhiên, thực tế vận hành lại đặt ra không ít thách thức.

“Giữa nhu cầu giữ ngọt cho sản xuất và nhu cầu duy trì môi trường nước mặn – lợ tự nhiên luôn tồn tại sự ‘tranh chấp’. Nếu không có sự phối hợp đồng bộ, hài hòa lợi ích các vùng, việc vận hành công trình lớn rất dễ phát sinh mâu thuẫn”, ông Hừng nhận định.

Một vấn đề nan giải khác đang được xã hội đặc biệt quan tâm là sạt lở. Toàn ĐBSCL hiện có hơn 800 khu vực sạt lở, với tổng chiều dài trên 1.000 km. Theo Thạc sĩ Trần Văn Hừng, đây là hệ quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó mất cân bằng sinh thái đóng vai trò then chốt.

Khi các công trình ngăn mặn, giữ ngọt được xây dựng dày đặc, môi trường nước trên nhiều đoạn sông thay đổi đột ngột từ mặn sang ngọt. Sự thay đổi này làm biến đổi các quá trình hóa sinh, sinh hóa trong nước và đất, ảnh hưởng đến thảm thực vật ven bờ, làm suy yếu khả năng ổn định tự nhiên của bờ sông.

Sạt lở bờ sông ngày càng gia tăng tại nhiều địa phương ĐBSCL, phản ánh những thách thức về mất cân bằng sinh thái, tác động của công trình thủy lợi, khai thác cát và áp lực phát triển kinh tế – xã hội. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Sạt lở bờ sông ngày càng gia tăng tại nhiều địa phương ĐBSCL, phản ánh những thách thức về mất cân bằng sinh thái, tác động của công trình thủy lợi, khai thác cát và áp lực phát triển kinh tế – xã hội. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Ngoài ra, sự gia tăng giao thông thủy với mật độ tàu ghe lớn tạo ra sóng mạnh, thúc đẩy quá trình xói lở. Việc xây dựng nhà cửa, đường sá sát bờ sông làm tăng tải trọng, kết hợp với khai thác cát chưa được kiểm soát chặt chẽ, càng khiến bờ sông dễ bị tổn thương.

Theo Thạc sĩ Trần Văn Hừng, sạt lở vốn là quá trình tự nhiên của một đồng bằng trẻ như ĐBSCL, nhưng sự can thiệp mạnh mẽ của con người đã làm tiến trình này diễn ra nhanh và khó kiểm soát hơn. Vì vậy, giải pháp không thể chỉ dừng ở việc xây thêm công trình, mà cần một cách tiếp cận tổng thể.

“Phát triển thủy lợi trong giai đoạn tới phải gắn với phục hồi không gian trữ nước, tôn trọng quy luật tự nhiên và cân bằng sinh thái. Quan trọng nhất là tư duy thích ứng linh hoạt, hài hòa giữa sản xuất, đô thị và môi trường”, ông Hừng nhấn mạnh.

Nhìn từ góc độ khoa học, hệ thống thủy lợi ĐBSCL đã và đang phát huy hiệu quả rõ rệt, nhưng để vùng đất này phát triển bền vững, việc đầu tư cần đi đôi với quản lý, vận hành thông minh và tầm nhìn dài hạn trước những biến động ngày càng khó lường của biến đổi khí hậu.

Xem thêm
Ra mắt Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông sản, nâng chuẩn minh bạch giá trị

Bộ Nông nghiệp và Môi trường ra mắt Hệ thống truy xuất nguồn gốc nông sản Việt Nam, thúc đẩy chuyển đổi số, nâng cao minh bạch và giá trị xuất khẩu.

Thủy lợi ĐBSCL: Đồng bộ hơn nhưng cần tư duy thích ứng dài hạn