Hiện trạng hệ thống thủy lợi sau sáp nhập
ĐBSCL giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Không chỉ là “vựa lúa” lớn nhất cả nước, vùng còn quyết định thành công của chiến lược an ninh lương thực quốc gia và đóng vai trò chủ lực trong xuất khẩu nông sản.
Những năm qua, ĐBSCL đóng góp trên 50% tổng sản lượng lương thực, chiếm hơn 90% sản lượng gạo xuất khẩu. Từ năm 2021 đến nay, mỗi năm vùng xuất khẩu trung bình từ 7,6 - 8 triệu tấn gạo. Bên cạnh đó, ĐBSCL cung cấp khoảng 70% sản lượng trái cây, trên 40% sản lượng thủy sản khai thác và 75% sản lượng thủy sản nuôi trồng của cả nước.
Ông Nguyễn Tấn Nhơn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Cần Thơ. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Tuy nhiên, song hành với tiềm năng to lớn là những thách thức ngày càng gay gắt từ biến đổi khí hậu. Hạn hán, xâm nhập mặn, triều cường, lũ lụt diễn biến khó lường đã và đang tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Trong bối cảnh đó, hệ thống thủy lợi được xác định là nền tảng then chốt, không chỉ phục vụ sản xuất mà còn bảo vệ sinh kế, đảm bảo an toàn cho hàng triệu người dân trong vùng.
Theo ông Nguyễn Tấn Nhơn, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP Cần Thơ, sau khi sáp nhập địa giới hành chính từ ngày 1/7/2025, quy mô và vai trò của hệ thống thủy lợi TP Cần Thơ mới trở nên rất lớn, bao trùm nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau. Hiện toàn thành phố có mạng lưới kênh rạch với tổng chiều dài khoảng 12.881 km, đóng vai trò huyết mạch trong tưới tiêu, tiêu thoát nước và điều tiết thủy văn.
Song song đó, hệ thống đê bao ngăn mặn, ngăn triều cường dài khoảng 667 km, trong đó có 91 km đê biển, góp phần bảo vệ các vùng sản xuất trọng điểm trước nguy cơ xâm nhập mặn và nước dâng. Toàn thành phố hiện có 889 cống điều tiết lớn nhỏ và 292 trạm bơm phục vụ tiêu thoát nước cho các vùng nông nghiệp, cùng với một hồ chứa nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong mùa khô.
“Với hệ thống này, trước mắt chúng tôi cơ bản bảo vệ được các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm, đảm bảo điều kiện tưới tiêu cho cây trồng, vật nuôi và sinh kế của người dân”, ông Nhơn nhấn mạnh.
Công trình cống, đập thủy lợi lớn trên địa bàn ĐBSCL góp phần kiểm soát xâm nhập mặn, điều tiết nước và bảo vệ vùng sản xuất nông nghiệp trước tác động của biến đổi khí hậu. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Những “điểm nghẽn” cần tiếp tục tháo gỡ
Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, lãnh đạo ngành nông nghiệp Cần Thơ cũng thẳng thắn nhìn nhận hệ thống thủy lợi hiện nay vẫn chưa đồng bộ, chưa bao phủ hoàn toàn. Một số vùng trũng thấp, nằm ngoài hệ thống đê bao khép kín vẫn thường xuyên chịu ảnh hưởng của triều cường gây ngập úng, tác động đến các mô hình sản xuất nhỏ lẻ. Một số khu vực khác chưa được bảo vệ đầy đủ trước nguy cơ hạn mặn, đặc biệt trong cao điểm mùa khô.
“Biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, mực nước biển dâng, dòng chảy thay đổi khiến yêu cầu đối với hệ thống thủy lợi ngày càng cao. Do đó, ngành nông nghiệp và môi trường vẫn rất cần tiếp tục đầu tư, kiên cố hóa và hiện đại hóa hệ thống thủy lợi để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới”, ông Nhơn cho biết.
Theo ông Nguyễn Tấn Nhơn, một trong những điểm sáng thời gian qua là sự quan tâm đầu tư mạnh mẽ của Trung ương và địa phương cho các công trình thủy lợi lớn, mang tính liên vùng. Nhiều dự án trọng điểm đã và đang phát huy hiệu quả rõ nét, góp phần kiểm soát mặn, điều tiết nước, phục vụ sản xuất nông nghiệp bền vững.
Tiêu biểu là hệ thống thủy lợi Ô Môn - Xà No, đóng vai trò điều tiết nước, rửa phèn, phục vụ sản xuất cho vùng rộng lớn phía Tây sông Hậu. Bên cạnh đó, dự án ngăn mặn vùng phía Tây sông Hậu đã được hoàn thành, góp phần bảo vệ an toàn cho hàng chục nghìn hecta đất sản xuất. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã hoàn thành nhiều công trình lớn tại các cửa sông, giúp chủ động điều tiết tưới tiêu, ngăn mặn và trữ nước ngọt cho các vùng sản xuất trọng điểm.
Những công trình này không chỉ mang ý nghĩa trước mắt mà còn là nền tảng lâu dài cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, thích ứng linh hoạt với điều kiện tự nhiên biến đổi.
Chủ động thích ứng, bảo vệ vụ lúa đông xuân
Trước tác động ngày càng rõ của xâm nhập mặn, đặc biệt trong bối cảnh TP Cần Thơ mới có địa giới giáp biển thông qua các tỉnh lân cận, ông Nguyễn Tấn Nhơn cho biết ngành nông nghiệp đang theo dõi chặt chẽ diễn biến nguồn nước, độ mặn trên các sông, kênh trục.
Thi công nạo vét, khơi thông kênh rạch tại khu vực nông thôn ĐBSCL nhằm nâng cao khả năng tiêu thoát nước, trữ nước ngọt, phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Đối với vụ lúa đông xuân 2025 - 2026 đang xuống giống, ngành nông nghiệp khuyến cáo nông dân tuân thủ chặt chẽ lịch thời vụ, xuống giống tập trung để né hạn, né mặn vào cuối vụ - thời điểm sau Tết Nguyên đán. Đồng thời, cần thường xuyên cập nhật thông tin dự báo khí tượng thủy văn, vận hành linh hoạt hệ thống cống, trạm bơm để chủ động trữ nước ngọt, hạn chế tối đa rủi ro do xâm nhập mặn.
Theo ông Nguyễn Tấn Nhơn, đầu tư thủy lợi cho ĐBSCL nói chung và TP Cần Thơ nói riêng không chỉ là giải pháp ứng phó trước mắt mà còn là chiến lược lâu dài. Hệ thống thủy lợi hiện đại, đồng bộ sẽ tạo nền tảng vững chắc cho nông nghiệp xanh, phát thải thấp, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản vùng ĐBSCL trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
“Thủy lợi đi trước một bước sẽ mở đường cho nông nghiệp phát triển bền vững, giúp người dân yên tâm sản xuất và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu”, ông Nhơn khẳng định.















