Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam vừa có văn bản gửi Bộ Tài chính, đề nghị áp dụng thống nhất quy định về thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với sản phẩm thức ăn chăn nuôi.

Nhóm nguyên liệu như ngô, lúa mì, đậu đỗ chiếm đến 70% trong cơ cấu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Ảnh: PL.
Theo phản ánh từ các doanh nghiệp và người chăn nuôi, hiện còn tồn tại sự khác biệt trong cách hiểu và thực thi giữa các cơ quan thuế địa phương liên quan đến nhóm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (TĂCN) truyền thống như thóc, ngô, cám, lúa mì, khô dầu…
Mặc dù Luật Thuế Giá trị gia tăng (có hiệu lực từ 1/7/2025), Luật Chăn nuôi và Thông tư 21/2019/TT-BNNPTNT đều quy định đây là những sản phẩm không chịu thuế, nhưng một số cơ quan thuế vẫn đang áp dụng mức thuế 5%, với lý do đây là nguyên liệu sơ chế, chưa phải là TACN hoàn chỉnh.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15, "Thức ăn chăn nuôi theo quy định của pháp luật về chăn nuôi; thức ăn thủy sản theo quy định của pháp luật về thủy sản" thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
Quy định này hoàn toàn phù hợp và có sự liên thông rõ ràng với Luật Chăn nuôi số 32/2018/QH14. Cụ thể, tại khoản 25 Điều 2, Luật Chăn nuôi định nghĩa: "Thức ăn chăn nuôi là sản phẩm mà vật nuôi ăn, uống ở dạng tươi, sống hoặc đã qua chế biến bao gồm: thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, thức ăn đậm đặc, thức ăn bổ sung và thức ăn truyền thống".
Đồng thời, khoản 29 Điều 2 của Luật cũng quy định: "Thức ăn truyền thống là sản phẩm nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biển được sử dụng phộ biển theo tập quán trong chăn nuôi, bao gồm: thóc, gạo, cám, ngô, khoai, sắn, bã rượu, bã bia, rơm, cỏ, tôm, cua, cá và các sản phẩm tương tự khác".
Danh mục thức ăn truyền thống này còn được cụ thể hóa tại Thông tư số 21/2019/TT-BNNPTNT ngày 28/11/2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triên nông thôn, trong đó liệt kê rõ các sản phẩm nông nghiệp như ngô, thóc, lúa mì, khô dầu, cám, đậu tương... là thức ăn chăn nuôi truyền thống (mục 1 Phụ lục VI của Thông tư).
Như vậy, có thể khẳng định các sản phẩm nông nghiệp nêu trên khi được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi là thức ăn chăn nuôi truyền thống theo đúng định nghĩa của pháp luật chuyên ngành, và do đó, thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT theo quy định tại khoản 3 Điều 5 của Luật Thuế giá trị gia tăng.

Việc thiếu thống nhất trong thực thi chính sách thuế sẽ gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước. Ảnh: PL.
Thực tế, việc một số cơ quan thuế địa phương áp dụng mức thuế suất 5% cho các mặt hàng này là chưa phù hợp với tinh thần của Luật, đồng thời tạo ra gánh nặng chi phí đáng kể cho doanh nghiệp và người chăn nuôi.
Trong khi đó, nhóm nguyên liệu nêu trên chiếm đến 70% trong cơ cấu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Nếu bị áp thuế VAT đầu vào nhưng sản phẩm đầu ra là mặt hàng không chịu thuế, doanh nghiệp sẽ không được khấu trừ. Điều này dẫn đến chi phí tăng cao, giảm sức cạnh tranh của ngành trong bối cảnh giá TĂCN nội địa đã chịu nhiều áp lực từ hàng nhập khẩu được trợ giá.
Ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp của Việt Nam hiện phụ thuộc hơn 90% vào nguyên liệu nhập khẩu. Việc thiếu thống nhất trong thực thi chính sách thuế đang làm trầm trọng thêm khó khăn cho doanh nghiệp trong nước.
Trong công văn, Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cảm ơn nỗ lực của Bộ Tài chính trong việc giảm thuế nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu thiết yếu xuống 0%, tuy nhiên, để chính sách thuế thực sự phát huy hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp, hai đơn vị này kiến nghị Bộ Tài chính sớm ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất trong toàn ngành thuế, khẳng định lại các loại nông sản sử dụng làm nguyên liệu TĂCN truyền thống (bao gồm cả sản phẩm chưa chế biến hoặc sơ chế như ngô, lúa mì, đậu đỗ, cám, sắn, khoai...) thuộc đối tượng không chịu thuế VAT theo khoản 3 Điều 5 của Luật Thuế GTGT và các quy định liên quan tại Luật Chăn nuôi.