Gần cuối đường Hai Bà Trưng ở Thủ phủ Tây Nguyên - Buôn Ma Thuột - có một xưởng vẽ nhỏ nhắn mang tên “Cây Cọ Cùn”. Ở đó có một họa sĩ say sưa kể câu chuyện về Tây Nguyên đương thì.
Chỉ vẽ về Tây Nguyên, nhưng giá trị nghệ thuật trong tranh anh ta vượt ra khỏi miền thượng này từ lâu, tranh đưa đi triển lãm khắp nơi trên đất nước lâu nay, ra tận nước ngoài, kể cả Pháp... Anh tự ví mình chỉ là “Cây Cọ Cùn”, vậy mà sáng tạo thì ngồn ngộn, tranh đẹp tha thiết về vạn vật. Lê Vấn chỉ vẽ trên lụa.
Tây Nguyên trong bạn là vùng đất lụa là quí báu với đại ngàn xanh mênh mông; là núi non hùng vĩ điệp trùng; là nhà sàn, là người bản địa đóng khố, gùi thổ sản, là tiếng cồng chiêng, đàn T’rưng, cây nêu, lễ hội, rượu cần, tượng nhà mồ huyền bí; là cà phê, cao su, tiêu, là đất bazan, là thác nước ầm ào tinh khôi... Bạn đã quen với thứ Tây Nguyên ấy trên báo chí, truyền hình suốt bao năm nay, đến độ bạn không muốn nhìn Tây Nguyên kiểu khác, ít ra như nó đang diễn ra, như “cuộc đời” thật của nó.
Nói về “Tây Nguyên” là phải nói về vùng đất huyền bí đẹp. Bất cứ cuộc triển lãm tranh, ảnh nào về Tây Nguyên bạn đều nhận ra cái quán tính cảm thức đó. Chưa hẳn những nghệ sĩ kia vì đọc các nhà Tây Nguyên học kinh điển như Henri Maitre, Comdominas, Dambo, Cassaigne, Jean Boulbet... mà “phê thuốc”, chịu qui phục, ảnh hưởng; mà có thể bản thân họ tự “cài đặt” mình theo tâm lý đám đông. Cái quán tính hùa theo đám đông để học vẹt, bắt chước, diễn đạt, thể hiện, nói leo, thậm chí phán bừa cẩu thả so với thực chất cũng như học thuật mà cứ nghĩ mình đang là, trúng, đúng.
Lê Vấn là một họa sĩ gần như duy nhất ở Tây Nguyên lội ngược dòng, thoát ra cảm thức đám đông ấy. Anh tự treo án cho mình trước, nếu sáng tạo trật, và trái đạo lý nghệ sĩ.
Anh tự kết tội mình trước nếu vẽ sai và vẽ xấu, xúc phạm công chúng bằng hành vi bôi bác nghệ thuật. Nếu bây giờ Lê Vấn mới “thoát” ra khỏi bầy đàn kia thì không có gì để nói, mà suốt ba mươi năm nay anh đã thế. Anh an nhiên bước đi, sống, vung cọ, như không để ý xung quanh đang có bao người cũng đang vẽ.
Anh vẽ bằng sự chỉ huy của rung động nơi mình, cái tôi nghiêm cẩn, đạo lý tự nhận ra, mà hoàn toàn không có bóng dáng của cái “chúng ta”, hay sư hô hào nào. Hay nói khác, anh vẽ cho chính mình, trước những gì diễn ra trên vùng đất mình đang có mặt. Một con chim Phí “nhập cư” tử tế bay trên thảo nguyên sắc màu.
Hẳn bạn sẽ ngạc nhiên, rằng tại sao “Lỗ” cà phê giăng khắp trong tranh Lê Vấn. Về mặt vật chất, nghĩa trần trụi, “Lỗ” cà phê nó là một thứ gì đó trái khuấy, phá bỉnh và có “quyền lực” kinh tế, chính nó làm biến động cả Tây Nguyên suốt mấy chục năm qua.
Và nó đã ám ảnh Lê Vấn - một nghệ sĩ, kẻ sống bằng tâm hồn. Là kẻ viết báo và nghiên cứu về môi trường tôi nắm được sự cụ thể của những con số, ví như diện tích rừng tự nhiên hiện còn ở Tây Nguyên bằng diện tích xâm phá dọn sạch trong mười lăm năm từ 1980 -1995: 1,8 triệu hécta. Hoặc hiện mỗi năm đều đặn mất tiếp trong số ít ỏi còn lại kia 20.000 - 25.000 hécta.
Rừng tự nhiên dĩ nhiên chỉ còn trong các cứ điểm cuối cùng là rừng đặc dụng, phòng hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, Vườn quốc gia, chứ không phải bất kỳ đâu như đã từng ở xứ này.
Tất nhiên, một nghệ sĩ người ta nhìn xuyên xã hội bằng trực giác nhạy cảm của họ, có thể đạt đến độ khái quát tinh tế, nên 500.000 hécta cà phê là cái gì đó không cần thiết, so với mọi thứ diễn ra quanh cây cà phê. Dân tại chỗ lơi biệt dần cây lúa rẫy đến quyết liệt tìm chỗ dựa ở cây công nghiệp cà phê.
Dân nhập cư ùn ùn theo tiếng gọi của cà phê mà tràn lên Tây Nguyên khiến vùng sơn nguyên từ một triệu dân thoát cái lên trên 6 triệu. Di dân theo chủ trương kế hoạch hay tự do thì cũng là di dân.
Nhưng “Lỗ” cà phê và cơn cuồng say đổi đời từ nó làm đau đớn và tê dại cơ thể vốn thanh khiết tự nhiên của Tây Nguyên. Tây Nguyên bị “lột trần” ra như nhộng. Đã bị trần truồng nhưng nọi người vẫn cứ vỗ về nhau nó đang là sơn nguyên, mọi thứ ở đây vẫn “huyền thoại”.
Tôi nhận ra những thảm họa môi trường từ sự biến động khủng khiếp của núi rừng miền thượng, còn Lê Vấn với tâm hồn nghệ sĩ, anh cảm nhận xa tít về một sư hoang mang, hoảng loạn trong lòng người. Dân bản địa thì ngỡ ngàng, còn dân nhập cư lại chông chênh.
Một nhóm người di cư thất thiểu ngồi nhìn lên đồi núi đỏ lòm dù là chốn mưu sinh mới nay mai trong bức “Non Nước Lạ Lùng” là một ví dụ về điều ấy. Phận người nhập cư đi khai phá đất thiêng của xứ người trong sự tả tơi cái nghèo từ cố quận, cho dù đất bazan có màu mỡ đến cỡ nào thì kiếp người trong hành trình kiếm ăn và tồn tại ấy vẫn chua xót (tác phẩm “Cơn Mưa Đang Đến”).
Những căn nhà nhập cư cô quạnh của dân nhập cư hòa khúc nhạc buồn bã của những làng bản địa đang tan dần cấu trúc xã hội và văn hóa(tác phẩm “Trắc Trở Tây Nguyên”). Cái “lỗ” cà phê ấy nếu không làm rỉ máu bazan thì cũng làm tím tái những dãy núi ngọn đồi, con sông dòng suối(bức “Đất Đỏ”).
Cộng đồng bản địa đi “ Cắt Lúa Trên Nguồn” mà như đi cắt chân tay, nguồn cội của mình. Những cuộc dời làng, tái định canh định cư đó đây khiến người đứt ruột đoạn tuyệt quê xứ, lòng người đổ nát như “Mơ Qua Buôn Cũ”.
Còn kẻ nhập cư thì mang theo bộ cốt văn hóa của mình và chơi vơi mượn lấy nó để tự mưu cầu làm ấm lại thân phận trên đất khách khi mùa sương giá về (tác phẩm “Chợ Rằm Giữa Rừng”). Những anh chàng nhập cư đào hố để trồng cà phê mà không biết đúng sai về mặt đạo lý với trời đất.
Con người chới với mà thiên nhiên cũng bấn loạn khi mọi thứ trên mặt đất bị lộ rõ, nháo nhào, kể chi con sông dòng suối, vạn vật. Lúc đó, bạn chơi vơi trong thứ kinh trời đất về sự thuận hòa phải có giữa con người với thiên nhiên - ở đầu non mà cũng thôi hiểu nổi nguồn (tác phẩm “Người Ở Đầu Non”).
Chất liệu trần gian như thế, hẳn phải vẽ những bức tranh về tình cảnh con người từng gắn bó với rừng một ngày về bên hồn ma của rừng với khẩu trang bịt ngút mặt mà ngậm ngùi nhìn sự rạn vỡ của núi đồi (tác phẩm “Người về cuối rừng”). Cá bơi trên sông mà còn hoảng loạn, vì nó cũng mất phương khi dòng nước kia cũng biến thiên (tác phẩm “Đầu Nguồn”).
Thế thì cũng không khó hiểu khi những cô gái sơn cước Ê Đê thuần khiết thiên nhiên, vô nhiễm tuyệt đối trước son phấn phù hoa bỗng một ngày thể hiện sự tồn tại của mình bằng những thứ gì được cho là tân thời không thua ai (tác phẩm “Móng Tay Son”).
Tất nhiên, những sơn nữ này cũng không biết mình là ai, có là chính mình, người của truyền thống bản địa. Tương lai là cái gì đó không biết được, mà con người còn phải sống cái đã. Như anh nói, họ, tất cả là những nhân vật chỉ có số phận mà không có lai lịch. Họ như nhau, cũng tợ rớt cái đùng xuống Tây Nguyên, cõi trần này, thế thôi.
***
Lê Vấn thương yêu con người, dù bản địa hay di dân. Tranh của Lê Vấn là câu chuyện về số phận con người trong hành trình triệt phá thiên nhiên gốc, hạnh phúc là đó mà tự đày đọa mình đó, trừng phạt mình ngay lúc này, kiếp này, thời đại này. Thế nên anh bảo mọi thứ ở Tây Nguyên đều từ rừng, mà mất rừng là mất điểm tựa cốt tử. Con người tự hành hạ mình trong cuộc moi móc, đào bới rừng núi, ngược đãi và nâng niu đất đai đó. Nghệ thuật của Lê Vấn không bị chi phối bởi truyền thống văn hóa, hay di sản quá khứ bất kỳ nào. Cây cọ là công cụ để đưa tâm hồn anh xuyên qua thực tại, hồn nhiên, tỉnh bơ, mà thâm hậu.
Một trong những tác phẩm tranh lụa của họa sĩ Lê Vấn
Lê Vấn sống trầm lặng, ồn ào đã không mà “trình diễn” hẳn là thứ sinh hoạt xa lạ. Người tinh tế như tranh. Đời Lê Vấn hình như là một cuộc ân nợ với với xứ thượng, mà anh là “khách”. Từ làng dệt Duy Xuyên - Quảng Nam trôi vào làng dệt ngã tư Bảy Hiền ở Tp.HCM.
Đặc biệt nhất là giai đoạn nổi trôi nhiều cảm xúc, thu nhận đầu tiên thần thái của đất và người ở cao nguyên miền thượng khi dạt lên vùng Gia Lành, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng để trồng dâu nuôi tằm cùng gia đình và sống cùng đồng bào K’ho. Rồi anh lại quay xuống Tp.HCM. Sau đó lại dạt sang Dak Lak, không gian của văn hóa Ê Đê, M’Nông, J’rai.
Hội họa cũng cần phải học, thế là anh quay lại Quảng Nam, ra Huế học Đại học Mỹ thuật Huế. Học xong, về nhà vẽ, và làm cho một cơ quan Nhà nước để kiếm cơm. Làm được ít năm, máu mơ mộng cao quá, đột nhiên bỏ luôn cơ quan kia để... vẽ cho “đã” đòi - Khác với người khác chân trong chân ngoài để được lợi tất cả, cố giữ suất lương, bất chấp ăn cắp thì giờ của dân.
Vậy thì, Lê Vấn là nghệ sĩ thực thụ, tự trọng, dễ dàng bỏ cơ quan Nhà nước để làm họa sĩ tự do khi mình còn trẻ và cơ hội tiến thân trong tầm tay. Đời anh chỉ chừng mười năm trong “quốc doanh” thôi. Anh là vậy, suýt dính luôn cả đời với cây dâu con tằm, hoặc đi đào “lỗ” cà phê như bao di dân khác, vào cái mùa bão tố “Đi Kinh tế mới” sau 1975 ấy quét qua gia đình anh khi đang sống ở Sài Gòn. Tâm hồn mơ mộng quá đỗi kia đã dẫn anh thành họa sĩ chuyên nghiệp.
Sống ở Tây Nguyên đã hơn 30 năm rồi, nhà cửa ổn định ở Buôn Ma Thuột, miệt mài hội họa dấn thân, thế mà anh tâm sự với tôi đang vẫn “như luôn ở trạng thái của một kẻ di dân”. Nên nhớ, ở Tây Nguyên, cánh văn nghệ cơ hội nhập cư thường biến cốt thành “người bản địa” để dễ “thành công”, nhận biệt đãi và cứ như là “rất hòa nhập”, nhưng Vấn thì không.
Anh giống tôi ở chỗ là, kể chuyện miền thượng bằng tâm thế của chính tôi, kẻ ngụ cư thực thụ, khách sĩ, không hơn thua với ai cả. Cái cảm giác ấy khiến tranh của anh mang phẩm chất giang hồ lưu lạc và chân thành với cuộc đời.
Bao giờ xem tranh anh, tôi vẫn thấy thứ nợ kia nó đeo bám cuộc đời lẫn không gian sáng tạo của Lê Vấn. Nhờ kiếp nợ riêng của anh mà cao nguyên đương thời hiện ra trong tranh thật thà, điềm tĩnh, bao dung và sâu lắng trong miền mơ tưởng của hội họa. Xem tranh anh, tôi thấy có mình trong đó (và có thể nhiều nhiều khác nữa).
Không ai vẽ được tranh cũng ắt là họa sĩ, và có nghiệp dĩ, và hội họa tính. Lê Vấn ít giao du, không bao giờ chồm chồm, ồn ào, khoe khoang, nhưng lâu nay giới “Giang hồ hội họa” trong nước đã thừa nhận vị thế của anh, đóng góp của anh, xem là một trong vài họa sĩ thực sự, hàng đầu của Tây Nguyên đương thời.
Mà không chỉ vẽ, ở xưởng họa có cái tên dễ thương “Cây Cọ Cùn” đó, hàng ngày Lê Vấn thầm lặng dạy vẽ cho những đứa trẻ yêu vẽ của thành phố cao nguyên kia bao năm nay. Bọn trẻ (đúng nghĩa là Tía, Má nó) cho anh tiền để sống. Bọn trẻ thiên thần kia đến đây chắc không chỉ để học về nghề họa, vui chơi với sắc màu, mà hẳn đã học được nhiều điều về tâm hồn của người thầy đầu tiên trầm lặng khiêm tốn vô bờ trong đời họa sĩ, kiến trúc sư, và gì gì đó nữa sau đó của mình rồi.