Xác định sứ mệnh tiên phong nghiên cứu khoa học
Theo PGS.TS Võ Văn Nha, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (gọi tắt Viện III) xác định rõ sứ mệnh tiên phong trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và dẫn dắt quá trình đổi mới mô hình sản xuất thủy sản.

Viện III đang nỗ lực nghiên cứu khoa học để thúc đẩy phát triển nuôi biển. Ảnh: KS.
Để đạt được điều này, ông chia sẻ những định hướng chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể của Viện trong việc thúc đẩy bộ ba Khoa học công nghệ - Đổi mới sáng tạo - Chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất, thích ứng biến đổi khí hậu và đóng góp tích cực vào chuỗi giá trị thủy sản quốc gia.
Cụ thể, đối với phát triển khoa học công nghệ, Viện xác định cần đột phá về chiều sâu chuyên môn. Viện sẽ chú trọng phát triển các hướng nghiên cứu có trọng tâm, khép kín, quy mô hàng hoá và thương mại sản phẩm sau khi nghiên cứu, chuyển giao, tập trung đột phá các đối tượng có sản phẩm hàng hoá, có lợi thế cạnh tranh.
“Viện có nhiều lợi thế về các nhóm đối tượng như: giáp xác, thân mềm, da gai, cá biển. Về lĩnh vực nghiên cứu, Viện cũng có thế mạnh về nghiên cứu sản xuất giống, nuôi thương phẩm và nghiên cứu dinh dưỡng, thức ăn, phòng trị bệnh các đối tượng trên.
Do vậy, Viện sẽ đột phá mở rộng nghiên cứu những đối tượng nuôi quan trọng, trong đó tập trung nhóm đối tượng phục vụ chiến lược nuôi biển của quốc gia như: nhóm nhuyễn thể (ốc hương, hàu, trai ngọc, bào ngư, sò huyết, ốc nhảy, tu hài, mực), nhóm cá biển (cá chẽm, cá mú lai, cá mú chấm cam, cá mú cọp, cá mú đỏ, cá song da báo, cá gáy, cá đục bạc), nhóm giáp xác (tôm sú, tôm hùm, ghẹ xanh, tôm mũ ni, tôm tít), nhóm da gai (hải sâm trắng, hải sâm đen, hải sâm vú, cầu gai sọ dừa)”, PGS.TS Võ Văn Nha chia sẻ.

Lãnh đạo Viện III khảo sát nuôi trồng thủy sản trên biển. Ảnh: KS.
Bên cạnh đó, Viện III cũng sẽ đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của khu vực và trên thế giới trong các lĩnh vực công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm các loài thủy sản nước mặn và nước ngọt bằng công nghệ RAS, công nghệ nuôi trồng thủy sản thông minh, công nghệ Internet vạn vật (IoT); công nghệ kiểm soát môi trường, giám sát dịch bệnh chủ động và kiểm soát thức ăn tự động, giúp giảm hệ số chuyển đổi thức ăn và ô nhiễm môi trường; công nghệ chế biến sau thu hoạch tạo sản phẩm đảm bảo chất lượng, sạch và an toàn môi trường.
Ngoài ra, Viện cũng sẽ chú trọng phát triển các hướng nghiên cứu có trọng tâm, trọng điểm, nghiên cứu quan trắc môi trường chủ động và cảnh báo sớm về môi trường; nghiên cứu phát triển và sản xuất vaccine phòng trị một số bệnh thường gặp ở các loài thủy sản; công nghệ vi sinh; góp phần phát triển nghề nuôi trồng thủy sản vùng duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên đúng với tiềm năng vốn có của khu vực.
Phát triển các chế phẩm vi sinh bản địa, sản xuất các chế phẩm phòng trị bệnh các loài thủy sản nuôi từ thảo dược, phế phụ phẩm nông nghiệp, thân thiện môi trường, thay thế hóa chất và kháng sinh trong xử lý nước và phòng bệnh. Nghiên cứu hệ vi sinh vật trong ao nuôi để cân bằng hệ sinh thái, cải thiện sức khỏe vật nuôi.

Nhiều giống thủy sản có giá trị được Viện III làm chủ công nghệ sản xuất giống. Ảnh: KS.
Tiến hành nghiên cứu ứng dụng và triển khai các mô hình nuôi, trồng thông minh (IoT), ứng dụng cảm biến đo chất lượng nước (pH, DO, nhiệt độ, độ mặn, độ đục nước...), sử dụng hệ thống cho ăn tự động, camera giám sát sức khỏe vật nuôi thông qua hoạt động bơi lội và khả năng bắt mồi, kết hợp với trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích hành vi vật nuôi và ra quyết định xử lý kịp thời.
Tạo lập hệ sinh thái nghiên cứu mở
Thời gian tới, Viện khuyến khích hình thành nhóm nghiên cứu kết hợp giữa sinh học - công nghệ thông tin - kỹ thuật - quản lý. Ưu tiên các nhiệm vụ có tính ứng dụng, có khả năng thương mại hóa. Cũng như ưu tiên phát triển các nhóm nghiên cứu chuyên sâu, nhóm nghiên cứu trẻ, có nhiệt huyết và lòng đam mê, tạo mọi điều kiện thuận lợi để những nhóm nghiên cứu này hoạt động và phát triển thông qua việc xây dựng cơ chế tiền lương, thưởng hấp dẫn.
“Chúng tôi sẽ tạo điều kiện để các nhóm nghiên cứu này có thể khởi nghiệp, thương mại hóa kết quả nghiên cứu mà không bị ràng buộc quá nhiều về thủ tục”, PGS.TS Võ Văn Nha nói, việc tạo điều kiện này nhằm tạo lập hệ sinh thái nghiên cứu mở.

Viện III sẽ ưu tiên phát triển các nhóm nghiên cứu chuyên sâu. Ảnh: KS.
Cùng với đó, Viện cũng sẽ triển khai mô hình “nghiên cứu - sản xuất - chuyển giao” đặt tại các vùng nuôi trọng điểm (Khánh Hòa, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Quảng Ngãi). Tại đây, các quy trình kỹ thuật mới sẽ được thử nghiệm và hoàn thiện công nghệ ngay tại thực địa trước khi thương mại hóa. Hình thành mạng lưới kết nối giữa nhà khoa học - doanh nghiệp - người nuôi trồng, giúp nghiên cứu thực sự được ứng dụng vào sản xuất.
Đây cũng là cách nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp đồng hành từ đầu trong nghiên cứu, cũng như đặt hàng, góp vốn nghiên cứu đến ứng dụng kết quả đầu ra.
Ngoài ra, Viện hợp tác với tổ chức trong và ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực và mở rộng phạm vi ứng dụng kết quả nghiên cứu.
Hướng tới nuôi trồng thủy sản thông minh
Ngoài đổi mới sáng tạo, Viện III cũng sẽ đẩy mạnh chuyển đổi số, để hướng tới nuôi trồng thủy sản thông minh. Để làm được điều này, Viện cần đào tạo đội ngũ cán bộ, xây dựng cơ sở dữ liệu số chuyên ngành; phát triển nền tảng số hỗ trợ sản xuất và truy xuất nguồn gốc bằng blockchain.

Viện III đang hỗ trợ tỉnh Khánh Hòa phát triển nuôi biển ở vùng biển hở. Ảnh: KS.
Trong đó, đối với việc đào tạo đội ngũ, cần liên kết với các doanh nghiệp có thế mạnh về công nghệ thông tin, hợp tác và gửi đào tạo ngắn hạn; xây dựng cơ sở dữ liệu số chuyên ngành sẽ tạo lập kho dữ liệu số về đặc điểm con giống, quy trình kỹ thuật, sản phẩm, dữ liệu bệnh thủy sản, chất lượng môi trường nước quan trắc qua các năm trước đây và cập nhật thường xuyên trong suốt quá trình nghiên cứu, thu thập. Cùng với đó, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích xu hướng và dự báo rủi ro xảy ra tai biến môi trường, dịch bệnh.
Xây dựng ứng dụng quản lý trang trại thủy sản (mobile/web app) giúp người nuôi ghi chép, giám sát dữ liệu trực tuyến, cảnh báo môi trường, theo dõi sức khoẻ vật nuôi, quản lý tiêu thụ thức ăn, lập kế hoạch thu hoạch.
Đối với truy xuất nguồn gốc bằng blockchain, Viện sẽ thử nghiệm hệ thống truy xuất chuỗi cung ứng thủy sản từ con giống, nuôi thương phẩm, thu hoạch, chế biến cho đến tiêu thụ, đảm bảo tính minh bạch, nâng cao giá trị thương hiệu.
Ngoài vấn đề trên, theo PGS.TS Võ Văn Nha, Viện cũng sẽ tăng cường hợp tác quốc tế về nghiên cứu và phát triển công nghệ tiên tiến. Từ đó giúp Viện tăng cường năng lực nội tại, tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế và nâng cao năng lực quản trị khoa học công nghệ. Cũng như phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ có khả năng làm việc với dữ liệu, công nghệ số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong nuôi trồng thủy sản.