| Hotline: 0983.970.780

Đóng cửa mỏ khoáng sản: [Bài 1] Nhận diện rủi ro

Thứ Tư 10/09/2025 , 09:03 (GMT+7)

Hoạt động đóng cửa mỏ khoáng sản tiềm ẩn nhiều hệ lụy, từ môi trường, xã hội đến tài chính - pháp lý, đòi hỏi nhận diện và quản lý chặt chẽ ngay từ đầu.

Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng, bao gồm cả khoáng sản kim loại (như vàng, sắt, đồng, nhôm…) và phi kim (như đá vôi, titan, cát trắng…) cùng với các nguồn tài nguyên năng lượng như than đá, địa nhiệt. Thực tế cho thấy, trong quá trình khai thác, đặc biệt ở giai đoạn cuối vòng đời mỏ khoáng sản và khi tiến hành đóng cửa mỏ khoáng sản, có 3 nhóm rủi ro chính cần được xem xét và quản lý chặt chẽ là rủi ro môi trường, rủi ro xã hội và rủi ro tài chính, pháp lý.

Rủi ro môi trường là nhóm rủi ro phổ biến và kéo dài trong suốt quá trình khai thác khoáng sản, cũng như sau khi đã đóng cửa mỏ. Ảnh: Lan Chi.

Rủi ro môi trường là nhóm rủi ro phổ biến và kéo dài trong suốt quá trình khai thác khoáng sản, cũng như sau khi đã đóng cửa mỏ. Ảnh: Lan Chi.

Theo TS. Quách Đức Tín, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, rủi ro môi trường là nhóm rủi ro phổ biến và kéo dài trong suốt quá trình khai thác khoáng sản, cũng như sau khi đã đóng cửa mỏ. Hoạt động khai thác khoáng sản thường gây ra những tác động tiêu cực đáng kể đến môi trường tự nhiên, bao gồm: phá vỡ cấu trúc, phát sinh chất thải rắn (đất đá thải), ô nhiễm và suy giảm chất lượng nguồn nước, ô nhiễm đất, biến dạng cảnh quan tự nhiên, phát thải khí độc hại, suy thoái hệ sinh thái (động - thực vật) và các ảnh hưởng khác đến cân bằng sinh thái.

Một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất là ô nhiễm nguồn nước, bao gồm cả nước mặt và nước dưới đất. Đặc biệt, hiện tượng nước thải axit mỏ rất dễ xảy ra tại các mỏ than và mỏ khai thác kim loại. Báo cáo nghiên cứu chất lượng nước thải từ một số mỏ than tại Quảng Ninh của ThS Đặng Xuân Thường, nước thải chưa qua xử lý được lấy tại cửa lò của 5 đơn vị hầm lò trong đó có 3 đơn vị thuộc Tổng Công ty Than Đông Bắc, Công ty Than Uông Bí và Công ty Cổ phần Than Hà Lầm trong giai đoạn từ tháng 11/2019 đến tháng 8/2020 cho thấy, nước thải mỏ có tính axit với giá trị pH dao động trong khoảng từ 3,4-5,3 thấp hơn giới hạn cho phép từ 1,61-1,69 lần, tùy thuộc vào từng mỏ và từng thời điểm lấy mẫu. Điều này có nghĩa, trước khi xả thải ra môi trường, nước thải mỏ cần xử lý đạt chuẩn theo quy định.

Một số nghiên cứu quốc tế cũng ghi nhận nước thải axit mỏ than chưa qua xử lý thường có pH rất thấp (dao động trong khoảng 2-4) và chứa nồng độ kim loại nặng như sắt, mangan ở mức cao, gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến hệ sinh thái sông suối và đất đai lân cận. Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2020 ước tính rằng chi phí xử lý nước thải axit tại 1 mỏ than quy mô trung bình có thể lên tới khoảng 20 tỷ đồng mỗi năm khi hệ thống xử lý vận hành liên tục.

Trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phục hồi môi trường sau khai thác, gánh nặng tài chính này sẽ chuyển sang chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư. Điều này không chỉ gây áp lực lên ngân sách công mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nước sinh hoạt và nước tưới tiêu trong khu vực, tiềm ẩn nguy cơ đối với sức khỏe cộng đồng và an ninh nguồn nước.

Bên cạnh ô nhiễm nguồn nước, suy thoái đất đai và sạt lở địa hình cũng là những rủi ro môi trường đáng lưu ý trong hoạt động khai thác khoáng sản. Khoảng năm 2017, sau thời gian dài khai thác quặng vàng tại bản Háng Trợ, xã Phì Nhừ (huyện Ðiện Biên Ðông), tỉnh Điện Biên, Công ty Cổ phần Công nghiệp Molybden Ðiện Biên đã rời đi để lại cả khu vực đồi, núi rộng lớn tan hoang. Nhiều hầm hố đào bới xiên ngang, xiên dọc, những hố sâu, rộng khắp nơi, tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn cho người dân. Bên cạnh đó, hệ thống thực vật gần như bị phá hủy, đất đai bị cày xới, xói mòn, sụt lở nham nhở. Nguồn nước cũng bị ô nhiễm.

TS. Quách Đức Tín cho biết, một rủi ro môi trường khác là ô nhiễm không khí và phá hủy cảnh quan. Đáng chú ý, tốc độ gia tăng ô nhiễm môi trường đang vượt xa tốc độ tăng trưởng sản lượng khai thác khoáng sản. Một ví dụ điển hình là ngành công nghiệp than của Nga. Theo báo cáo của cơ quan Rosprirodnadzor, trong giai đoạn 2012-2018, tất cả chỉ số môi trường của ngành đều suy giảm, trong khi sản lượng khai thác than chỉ tăng 30%. Điều này phản ánh xu hướng gia tăng nhanh chóng tác động tiêu cực của khai thác khoáng sản nếu không được kiểm soát và quản lý chặt chẽ.

Nhóm rủi ro thứ hai là rủi ro xã hội và sinh kế. Việc đóng cửa mỏ khoáng sản đồng nghĩa với việc chấm dứt hoặc suy giảm đáng kể các hoạt động kinh tế liên quan đến khai thác khoáng sản tại địa phương, kéo theo những hệ quả trực tiếp như mất việc làm và mất nguồn thu nhập của người lao động. Chẳng hạn, tại huyện Bắc Bình (tỉnh Bình Thuận) vào năm 2021, sau khi một số mỏ titan đóng cửa, hiện tượng đất đai bị cát hóa và nhiễm mặn đã làm cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, gây ra sự bất bình trong cộng đồng và làm suy giảm đáng kể nguồn sinh kế bền vững của người dân.

Tiếp đó là rủi ro tài chính và pháp lý. TS. Quách Đức Tín cho rằng một trong những rủi ro phổ biến là việc doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phục hồi môi trường và đóng cửa mỏ sau khi kết thúc dự án khai thác khoáng sản. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp lợi dụng các lỗ hổng pháp lý để tuyên bố phá sản hoặc rút khỏi dự án, nhất là khi giá khoáng sản giảm, từ đó chuyển lại gánh nặng tài chính cho Nhà nước và chính quyền địa phương.

Khu vực mỏ vàng Đăk Sa. Ảnh: AT.

Khu vực mỏ vàng Đăk Sa. Ảnh: AT.

Đơn cử tại Đà Nẵng, sau nhiều năm khai thác đất sét, đầu tháng 12/2024, Công ty TNHH Hiệp Đại Hưng đã tuyên bố “công ty đã phá sản và hiện nay công ty đang làm thủ tục phá sản”. Trong khi đó, công ty vẫn chưa thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về hoàn thổ, phục hồi môi trường và đất đai theo quy định pháp luật.

Điều này dẫn đến thiệt hại kép: ngân sách Nhà nước phải chi thêm để khắc phục ô nhiễm môi trường, đồng thời chính quyền địa phương có thể vướng vào các tranh chấp pháp lý khi người dân khởi kiện đòi bồi thường do ô nhiễm kéo dài. Hậu quả là ngân sách bị thâm hụt, buộc chính quyền địa phương phải kêu gọi hỗ trợ tài chính từ bên ngoài để xử lý. Ngoài ra, bên cạnh chi phí phục hồi môi trường, các địa phương còn chịu thiệt hại do mất nguồn thu thuế dài hạn và suy giảm giá trị đất tại khu vực mỏ khoáng sản nếu không có kế hoạch tái phát triển hiệu quả.

Theo TS. Quách Đức Tín, việc nhận diện đầy đủ và chính xác các nhóm rủi ro ngay từ giai đoạn lập kế hoạch khai thác khoáng sản là bước đầu tiên mang tính quyết định, nhằm thiết lập các cơ chế quản lý phù hợp và xây dựng các giải pháp quản lý và giảm thiểu rủi ro một cách hiệu quả và bền vững.

Xem thêm
Nỗi lo công trình thủy lợi mùa bão: Nhiều hồ chứa rệu rã

Hiện vùng Đông Gia Lai (Bình Định cũ) còn 12 hồ chứa đã xuống cấp, nguy cơ mất an toàn; đây là nỗi lo lớn của ngành chức năng khi mùa mưa lũ cận kề…

Việt Nam - Nhật Bản hợp tác về quản lý và phát triển kinh tế biển

Đối thoại chính sách kinh tế biển là cơ hội để Việt Nam - Nhật Bản trao đổi trao đổi kinh nghiệm về chính sách quản lý và phát triển kinh tế biển xanh.

Bình luận mới nhất