- Lần sau nấu cơm, cháu nên tính toán lượng gạo cho vừa. Bữa nào còn thừa cơm thì tận dụng để bữa sau dùng lại, đừng phí phạm thế.
- Ôi dào, ba hạt cơm thừa ấy mà chú, tiếc làm gì.
Nhìn những hạt cơm trắng ngà phút chốc bị nhuộm đen bởi nước rãnh, tôi nao nao buồn. Cách đây hơn tháng, cơ quan tôi mang mấy tấn gạo lên hỗ trợ cho một xã ở Mai Châu. Cái xã chỉ cách thị trấn mười lăm cây số ấy, từ lâu đã không mấy nhà còn nhìn thấy hạt gạo. Bữa ăn hàng ngày của họ là sắn, là bất cứ thứ củ rừng nào ăn được và các loại rau rừng. Ngay cả nhà bí thư, chủ tịch xã cũng không thoát khỏi cảnh đó. Hai tấn gạo cho một xã, mỗi khẩu chỉ được mấy cân, quả là muối bỏ bể. Đến nay, chắc họ lại trở về với chế độ sắn mốc, rau rừng, vì mùa gặt chưa đến...Tôi bảo đứa cháu:
- Cháu có biết vì sao các cụ lại gọi hạt gạo là “ngọc thực” không?
- Không ạ.
- Vì trong mỗi hạt gạo đều thấm đẫm mồ hôi của những người làm ra nó. Người nông dân Việt Nam ta có câu “Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Người nông dân Trung Quốc cũng có câu “Cày ruộng giữa giờ ngọ/ Lưng áo mồ hôi rỏ/ Ai biết cơm trên mâm/ Mỗi hạt mỗi tấn khổ”...
- Đó là chuyện ngày xưa. Bây giờ, còn ai đói cơm nữa đâu chú.
- Không phải chuyện ngày xưa mà là chuyện của cả ngày nay nữa. Vợ chồng mày sống trong thành phố, quanh mình đủ cả ti vi, máy tính…mà sao cứ như đôi ba ba trong hũ thế.
Thằng chồng đang pha cà phê, chợt ngừng lại nói chen vào:
- Hôm nọ chúng cháu xuống huyện L. xem xét một số trường hợp sử dụng đất sai mục đích. Đến trưa, lãnh đạo huyện kéo ra nhà hàng, chưa đến chục người mà họ gọi số thức ăn dễ đến hai chục người ăn mới hết. Lúc về, trên bàn còn bừa bộn. Bọn nhà hàng nó trút ráo xuống ao…
- Những cảnh đó, thì chú được chứng kiến nhiều gấp mấy lần cháu…
Điều tôi nói là thực lòng. Làm nhà báo, tôi đã hàng chục lần, vì không thể từ chối được mà phải dự những “bữa cơm thân mật” do các ông trưởng các cơ quan, các ông giám đốc doanh nghiệp mời. Gọi là “bữa cơm thân mật” mà thức ăn đầy ngập bàn, bia rượu tràn như suối. Những trận chạm cốc “trăm phần trăm”, những tiếng hét “dô…dô…dô” như xé màng tai…cuối bữa, trên mâm vẫn còn ngổn ngang, nhiều đĩa thức ăn trị giá cả trăm ngàn được dọn ra hầu như chỉ để vui mắt, vì chúng mới chỉ vợi đi chút ít…mà chẳng thấy một ai tỏ vẻ xót xa. Có hề gì, tiền đó là tiền công...
Vốn gầy yếu, khảnh ăn, tôi chịu đựng những bữa ăn đó như chịu cực hình. Và những hình ảnh trong bài thơ “Sở kiến hành” (Những điều trông thấy) của thi hào Nguyễn Du, không hiểu sao, những lúc ấy lại cứ trở về bám riết lấy tôi. Này đây là ba mẹ con rách tả tơi, mặt xám ngắt vì đói, tay khư khư cái giỏ trong chỉ có cám và rau dại, đứng run rẩy bên đường dưới cái rét cắt da.
Và bên kia, trong nhà công là những lò than hồng rực, những áo gấm đai vàng choáng mắt, và những “Mâm cỗ sao mà ê hề/ Vây cá hầm gân hươu/ Lợn dê bát đầy ngút/ Quan lớn không ngó qua/ Các thầy chỉ nếm chút/ Thức ăn thừa đổ đi/ Quanh xóm no đàn chó…”. Câu hỏi gay gắt của nhà thơ “Ai biết bên đường kia/ mấy mẹ con đói khổ” không phải chỉ dành cho thời cụ sống, bởi bây giờ người dân đói đâu phải đã hết, và những bữa tiệc bằng tiền công càng ngày càng sang hơn, to hơn, không chỉ ăn mà sau lúc ăn nhiều khi người ta còn “chơi” nữa...
Đêm ấy, trước lúc đi ngủ, tôi còn ngồi ở bàn, giở cuốn sách viết về vua Ung Chính nhà Thanh trong cặp ra đọc. Và lát sau, làm như vô tình, tôi để ngỏ đúng cái trang tả về bữa ăn của nhà vua rồi sang phòng khách ngủ. Trang sách viết rằng bữa ăn của vị hoàng đế chỉ có một đĩa thanh chưng tố hoàn tử, một đĩa rau cần xào với xương sống lợn, một đĩa cuống đỗ xào và một bát cơm trắng. Ung Chính chậm rãi nhai. Một hạt cơm vãi xuống mâm ngài cũng dùng đũa gắp lên miệng.
Đĩa cuống đỗ ăn hết rồi, chỉ còn sót một ít nước, nhà vua còn tráng nước sôi ăn sạch sành sanh. Xong, ngài đứng dậy, chỉ đĩa rau cần xào chưa đụng đũa, bảo người hầu: "Món này cất đi, chiều hâm nóng lên trẫm lại dùng". Viên tổng đốc Lưỡng Giang lúc đó cũng có mặt, đã than phiền: “Tâu bệ hạ. Mâm cơm của bệ hạ không bằng mâm cơm của một viên tri huyện. Tại sao bệ hạ phải chịu khổ thế?". Nhà vua điềm tĩnh bảo: “Trẫm làm hoàng đế, được cả nước tuân phục. Cơm nào mà chả gọi đến được. Cao lương mỹ vị nào mà chả sai mang đến được. Nhưng từ chỗ ta tiết kiệm đến chỗ xa xỉ thì dễ thôi. Còn từ chỗ xa xỉ mà bảo tiết kiệm thì khó khăn lắm đó”.
Lát sau, nghe hai vợ chồng nó xì xào. Chắc chúng nó vừa đọc lướt cái trang sách đó. Tôi lắng tai. Tiếng con vợ nhỏ quá không biết nó nói gì. Thằng chồng thì chặc lưỡi :
- Chú già rồi, hay suy nghĩ lẩn thẩn!