Sáng 5/6, Văn phòng SPS Việt Nam tiếp một đối tác đặc biệt - Hiệp hội Doanh nghiệp Hợp tác quốc gia và Liên minh Hợp tác xã Hoa Kỳ (NCBA CLUSA), trong một cuộc gặp mang tinh thần trao đổi, xây dựng và hợp tác.

Bà Bagie Sherchand và ông Ngô Xuân Nam bắt tay hữu hảo sau khi kết thúc buổi thảo luận trong không khí cởi mở và thẳng thắn. Ảnh: Bảo Thắng.
Bà Bagie Sherchand, Giám đốc Đối tác Chiến lược và Liên danh (Liên minh Hợp tác xã Hoa Kỳ - NCBA CLUSA) đặt một vấn đề tưởng như thuần túy kỹ thuật: năng lực kiểm nghiệm. Nhưng đằng sau, là một khát vọng lớn: Mở đầu chuỗi giá trị nông sản bằng sự hiểu biết lẫn nhau, từ khâu nhỏ nhất, nơi người nông dân gieo trồng từng luống cây, thả từng mẻ cá.
Với bà Bagie, SPS không đơn thuần là một bộ tiêu chuẩn hay công cụ quản lý rủi ro. Đó là sợi dây liên kết để hai quốc gia bên bờ Thái Bình Dương cùng chia sẻ trách nhiệm đối với sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Và điểm khởi đầu, không phải là những container chở trái cây đang xếp hàng tại cảng, mà chính là những bàn tay lao động nơi nông trại, nơi còn nhiều khoảng trống thông tin và năng lực.
“Chúng tôi muốn bắt đầu từ người nông dân. Họ không chỉ là đối tượng cần tuân thủ, mà là trung tâm của cả chuỗi giá trị. Đó cũng là nơi chúng tôi muốn đầu tư để xây dựng niềm tin”, bà Bagie nhấn mạnh.
Sự quan tâm này gặp ngay sự đồng thuận từ phía Việt Nam. TS Ngô Xuân Nam, Phó giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam chia sẻ: “Người nông dân là nơi sản phẩm bắt đầu, nhưng lại là mắt xích yếu nhất, khó tiếp cận thông tin nhất để nâng cao năng lực SPS".
Theo ông Nam, hệ thống quản lý an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật không thể vận hành hiệu quả nếu người thực thi ở cơ sở không hiểu mình đang làm gì, vì sao cần làm, và làm như thế nào để không vi phạm. “Không thể chờ đến lúc hàng về đến cửa khẩu mới nói đến kiểm tra. Mọi tiêu chuẩn SPS phải bắt đầu từ khâu gieo trồng, chăm sóc, sơ chế, đóng gói… ngay tại địa phương”, ông bày tỏ.
Với tinh thần đó, khi phía Hoa Kỳ bày tỏ sự quan tâm sâu sắc tới Đề án nâng cao năng lực thực thi SPS, theo Quyết định 534/2024/QĐ-TTg, ông Nam không coi đây là sự ghi nhận thông thường, mà là một tín hiệu hợp tác chiến lược.
Ông chia sẻ, đề án này không chỉ là sản phẩm của một cơ quan đơn lẻ, mà là kết quả của trí tuệ tập thể, kết tinh từ hơn 100 góp ý của các bộ, ngành, doanh nghiệp và chuyên gia trong và ngoài nước. Nếu thực thi hiệu quả, nó không chỉ nâng chuẩn cho nông sản Việt, mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng Hoa Kỳ, những người đang ngày càng quan tâm đến nguồn gốc và độ an toàn của thực phẩm.
“Cách tiếp cận tổng thể từ Đề án SPS của Việt Nam rất phù hợp với định hướng của Hoa Kỳ. Chúng tôi không kiểm tra một lô hàng cụ thể nào, mà muốn hiểu cách các bạn xây dựng hệ thống, từ pháp lý đến tổ chức, từ giám sát đến đào tạo”, bà Bagie nói.

TS Ngô Xuân Nam đánh giá cao đề xuất hợp tác về nâng cao năng lực cảnh báo sớm. Ảnh: Bảo Thắng.
Một điểm được cả hai bên thống nhất là xây dựng cơ chế cảnh báo sớm về rủi ro SPS, một biện pháp quản lý tiên tiến đã được áp dụng hiệu quả tại nhiều quốc gia phát triển. Tuy nhiên, ông Nam lưu ý, rằng cơ chế này chỉ thực sự có giá trị nếu được phủ rộng, không chỉ ở cấp Trung ương, mà đến cả cán bộ kỹ thuật ở địa phương, nhà báo đưa tin về nông sản và đặc biệt là người nông dân - đối tượng dễ bị tổn thương nhất nếu hệ thống cảnh báo không đến được với họ.
Trên thực tế, một hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả không chỉ là việc phát đi thông báo khi đã có sự cố, mà là chuỗi hành động chủ động, từ nhận diện tín hiệu rủi ro, phân tích xu hướng đến truyền tải thông tin nhanh chóng và dễ hiểu đến người thực thi. Với Việt Nam, điều này đòi hỏi phải có một nền tảng dữ liệu SPS đồng bộ, kết nối giữa cơ quan Trung ương, các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và cộng đồng nông dân.
Ông Nam chia sẻ, Văn phòng SPS Việt Nam đang xúc tiến số hóa các dữ liệu cảnh báo, tích hợp cùng hệ thống thông báo quốc tế (WTO-SPS) thành Cổng thông tin quốc gia về SPS. Cùng với đó, xây dựng các mô hình điểm tại một số vùng xuất khẩu nông sản trọng điểm. Nếu không có luồng thông tin sớm và minh bạch, chúng ta luôn rơi vào thế bị động trước các quy định SPS mới từ các nước nhập khẩu”, ông bày tỏ.
Về phía NCBA CLUSA, bà Bagie cho biết sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam tiếp cận các mô hình cảnh báo sớm thành công tại Hoa Kỳ và một số quốc gia có chung mối quan tâm, nơi thông tin được truyền qua cả ứng dụng di động, hệ thống nhắn tin tự động đến HTX. “Điều quan trọng nhất là người nông dân hiểu được rủi ro trước khi rủi ro trở thành hiện thực”, bà nhấn mạnh.

Nâng cao năng lực SPS giúp hàng hóa hai nước dễ tiếp cận thị trường của nhau hơn. Ảnh: minh họa.
Đề xuất của Văn phòng SPS Việt Nam về việc thành lập nhóm công tác chung, vì thế, được NCBA CLUSA ủng hộ mạnh mẽ. Thay vì dàn trải nguồn lực, nhóm này sẽ tập trung vào các hoạt động trọng điểm, có khả năng tạo chuyển biến thực chất trong xây dựng năng lực. Theo ông Nam, đây là bài học rút ra từ nhiều năm đào tạo, tập huấn về SPS cho địa phương. “Tập trung ở Trung ương để tạo mẫu, sau đó mới nhân rộng xuống địa phương sẽ hiệu quả hơn là chia nhỏ nguồn lực ngay từ đầu”, ông nhìn nhận.
Bà Bagie cho biết, Hoa Kỳ cũng đang đối mặt với những thách thức SPS nội tại, đặc biệt là ở cấp nông hộ. Những vấn đề như dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, quy trình truy xuất nguồn gốc hay yêu cầu về bao bì sinh học không chỉ là bài toán cho Việt Nam. Do đó, sự hợp tác lần này không đơn thuần là hỗ trợ một chiều, mà là đối thoại hai chiều, nơi hai quốc gia cùng nhìn lại hệ sinh thái SPS của mình và học hỏi lẫn nhau từ thực tiễn.
Ở cấp quốc gia, đây là câu chuyện của thể chế, chiến lược, chính sách. Nhưng ở tầng kỹ thuật, đó lại là hành trình chuyển đổi tư duy của từng nông dân, từ làm theo kinh nghiệm sang làm theo chuẩn, từ ngẫu nhiên sang kiểm soát; từ bị động tiếp nhận thông tin sang chủ động phòng ngừa rủi ro.
“Chúng tôi muốn cùng các bạn đồng hành trong hành trình đó”, bà Bagie nói.
Buổi làm việc kết thúc trong tinh thần cởi mở, không có những tuyên bố hoành tráng, nhưng đầy ắp những gợi mở hợp tác cụ thể. Phía NCBA CLUSA cam kết sẽ đề xuất các sáng kiến hợp tác chung về SPS, đồng thời hỗ trợ kết nối mạng lưới HTX nông nghiệp với thị trường Hoa Kỳ.
Ở phía bên kia, Văn phòng SPS Việt Nam sẵn sàng đóng vai trò điều phối giữa các cơ quan trong nước để cùng tạo ra một "bản giao hưởng" minh bạch, khoa học và lấy con người làm trung tâm. Không chỉ người tiêu dùng, mà cả người sản xuất nhỏ lẻ cũng phải được bảo vệ.
Niềm tin thương mại không khởi phát từ phòng thí nghiệm hay biên bản kiểm tra. Nó nảy mầm từ ruộng đồng, nơi người nông dân cần được trao đủ hiểu biết, đủ công cụ, đủ tiếng nói để bước vào sân chơi toàn cầu. Và nếu mở đúng điểm đầu chuỗi - người nông dân - niềm tin sẽ bền chặt, giữa hai nền nông nghiệp cách nhau nửa vòng trái đất nhưng chung một mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng, thúc đẩy thương mại hài hòa và phát triển bền vững.
Giữa Iowa và Đắk Lắk, Ohio và Hải Dương, giữa những cánh đồng ngô và nương cà phê, ruộng đậu tương và vườn vải thiều, SPS không còn là hàng rào kỹ thuật, mà là chiếc cầu nối những bàn tay gieo trồng với bàn ăn khắp thế giới.