Vua Minh Mạng (Nguyễn Phúc Đảm) là con thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng hậu. Tháng 2/1820, sau khi vua Gia Long băng hà, ông được nối ngôi, lúc này đã 30 tuổi. Ông là vị vua có nhiều đóng góp đối với công việc mở mang đất nước...
>> Bí mật về lăng tẩm của các vị vua triều Nguyễn
Điện Sùng Ân, lăng Minh Mạng
Không vừa ý, giáng chức quan
Làm vua được 7 năm, nhà vua bèn lệnh cho các quan giỏi phong thủy trong triều đi coi đất để chuẩn bị xây lăng. Ròng rã suốt 14 năm trời cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình. Đây được xem là cuộc hành trình tìm đất xây lăng mộ dài nhất triều Nguyễn.
Sau nhiều năm trời tìm kiếm, quan Địa lý Lê Văn Đức là người đã tìm ra được địa điểm phù hợp với ý vua ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành sông Hương thơ mộng. Do có công lớn trong việc tìm ra phần đất tốt này, Lê Văn Đức được nhà vua thăng liền hai cấp. Trước khi xây dựng lăng, vua Minh Mạng đã cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn. Và quyết định đặt tên nơi an nghỉ của mình là Hiếu Lăng.
Công việc khảo sát địa thế, đo đạc đất đai được vua giao cho Trương Đăng Quế và Bùi Công Huyên. Họ đã vẽ toàn bộ núi đồi, khe suối, sông ngòi nơi đây. Đồng thời sơ đồ các dự án kiến trúc từ La thành, Bửu thành, điện, lầu, đình, tạ, đường, viện cho đến những việc đào hồ, làm cầu, dựng cửa... được trình lên và nhà vua rất đắc ý. Tháng 4/1840, công việc xây dựng Hiếu Lăng bắt đầu, vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển hơn 3000 lính, thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8/1840, vua Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh và không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc. Việc xây lăng bị gián đoạn.
Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì vua Minh Mạng lâm bệnh và đột ngột băng hà vào tháng 1/1841 ở tuổi 50. Khi vua Thiệu Trị lên ngôi (tháng 2/1841) đã vâng theo di huấn nên sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Trong quá trình thi công, cứ hai tháng một lần các binh sĩ được thay phiên nhau về nghỉ lấy sức làm tiếp. Ngoài ra, vua Thiệu Trị còn ra lệnh cho Thự Văn Minh Điện Đại học sĩ Trương Đăng Quế phải thường xuyên lên kiểm tra đôn đốc để công việc xây lăng được chu đáo. Ngày 20/8/1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới được hoàn tất.
Mặt trước Đại Hồng Môn lăng Minh Mạng
Hài hoà với thiên nhiên, sâu sắc về ý tưởng
Vùng đất dùng để xây dựng lăng vua Minh Mạng vừa hợp với phong thủy, vừa hợp với cảnh quang xung quanh. Toàn bộ công trình là một tổng thể kiến trúc qui mô gồm 40 công trình lớn nhỏ. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động của nhân dân và óc sáng tạo của các nhà thiết kế đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm, vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng.
Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750m là một quần thể kiến trúc được bố trí đăng đối trên trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9m, rộng 12m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45x45m), hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu. Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế đầu gối lên ngọn núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên. Khu vực lăng có chiều sâu hun hút, các công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà Thần đạo là trục trung tâm. Những cánh cửa làm hoàn toàn bằng gỗ ở Hiển Đức Môn, Hoằng Trạch Môn và Minh Lâu khi mở, tạo ra những bất ngờ thích thú cho người đến chiêm ngưỡng.
Kiến trúc, phong cảnh và độ cao thấp của Thần đạo cứ thay đổi theo từng cung bậc hết sức thú vị. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước trong xanh, cứ đến mùa là tỏa ngát hương sen, cạnh bên là những quả đồi phủ mượt bóng thông. Tất cả tạo nên một bức tranh hữu tình. Ở phần trước lăng, kiến trúc thưa thoáng, càng vào sâu mật độ kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc thời ấy đã rất khéo léo để tạo nên một khu lăng cực đẹp. Họ biết lợi dụng thế đất và các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc và điểm xuyết trong đó là những chiếc hồ được ví như là những nốt nhạc trầm bổng trong ánh tà dương. Bố cục kiến trúc ấy nói lên cá tính và phong cách của chính vua Minh Mạng. Đương thời vua Minh Mạng muốn tạo nên sự chắc chắn và nét khác biệt ở Hiếu Lăng bằng cách lồng cốt thép ở các trụ, đồng thời sử dụng sành sứ để trang trí các con rồng ở các bức tường thành.
Nơi yên nghỉ sau cùng của vua Minh Mạng thực sự là một không gian của hội họa, thi ca và triết học. Sự uy nghiêm, nét tĩnh tại của kiến trúc và khung cảnh gợi tình của thiên nhiên hòa chung thể hiện tính nghiêm khắc, tri thức uyên bác, nhưng lồng trong đó có một tâm hồn lãng mạn của nhà vua. (Còn nữa)