| Hotline: 0983.970.780

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá

Bài 1: Những ‘túi nước’ trên độ cao 2.000m

Thứ Hai 04/08/2025 , 10:10 (GMT+7)

Nếu 'Con đường hạnh phúc' là di sản đầu tiên trên Cao nguyên đá thì những hồ treo ở độ cao 2.000 mét có lẽ là di sản thứ 2 do con người tạo nên...

Gần 2 thập kỷ qua, những kiệt tác hồ treo là những công trình thủy lợi góp phần giải cơn khô hạn cho vùng cao thiếu nước Đồng Văn – Mèo Vạc.

Mạch sống vùng Cao nguyên đá

Đã nhiều lần lên Hà Giang (cũ) - Tuyên Quang mới bây giờ, nhưng lần nào mảnh đất này cũng cho tôi những cảm xúc mới mẻ, không bao giờ cũ. Chớm đông, những ruộng tam giác mạch trổ hoa đầu vụ, tô điểm cao nguyên bằng sắc hồng nhạt pha tím. Khi một dải tím phớt hồng nối nhau sẽ thành một thảm màu diệu kỳ. Nó làm đá xám bớt lạnh, lòng người cũng bớt quạnh hiu…

Công trình hồ treo chứa nước tại một thung lũng đẹp trên Sủng Là. Ảnh: Khương Trung.

Công trình hồ treo chứa nước tại một thung lũng đẹp trên Sủng Là. Ảnh: Khương Trung.

Mùa xuân, sắc đào bung đỏ trong thung. Một cây đào núi cô độc đứng chênh vênh ở một mỏm núi, một mình tự đỏ. Một mình tự sáng. Còn mùa xuân, đến hẹn, lại về…

Mùa hạ, những nương ngô bời bời xanh trên những triền đá tai mèo xám rịn. Khi cây ngô còn chưa vượt đầu người, gốc ngô non ôm đồm một quần thể những cây thân cỏ: đậu hà lan, một dây bí vừa ngúc ngắc thân dài gang tay, ngọn đang lang thang đi tìm chỗ vịn… Hoặc cũng có thể, 3 cây lanh non vừa nứt mầm đội đất nhô lên, nép mình bên đá.

Mùa thu, vô vàn những mảng sắc màu chen nhau ở bìa rừng: những loài cây thay lá chuyển vàng hay đỏ; những cây cổ thụ lá 2 màu, mặt trên loang loáng như dát bạc, mặt dưới là màu nâu, tựa như màu đất. Đất trời chung sức vẽ bức tranh thiên tạo, mà bất kỳ họa sỹ tài danh nào cũng không thể trộn ra đúng gam màu thiên tạo ấy…

Trong bức tranh bốn mùa này, ở đâu, bao giờ và khi nào, khi đặt chân vào đất Quản Bạ, chuẩn bị chinh phục dốc Săm Pun – con dốc hãi hùng một thời bây giờ đã được bạt đỉnh, hạ độ cao khiến sự nguy hiểm của nó chỉ còn trong hoài niệm, ta sẽ chạm vào cao nguyên đá, bắt đầu đồng hành với bạt ngàn đá, trải từ Quản Bạ sang Yên Mình, rồi Đồng Văn, Mèo Vạc, vẽ tiếp cung Mậu Duệ - Bắc Mê. Thi thoảng, sẽ “túm” được một khúc sông Nho Quế lúc ẩn lúc hiện, nổi bật bởi màu nước xanh hoang dại không trộn lẫn giữa núi rừng.

Và trên vùng đá rợn ngợp, bắt gặp hình ảnh những hồ nước ngọt hiếm hoi nằm gọn gàng trong một thung lũng nhỏ, ở vị trí bao giờ cũng đắc địa nhất: gần khu dân cư, bản làng đông đúc nhất; rất gần với những mạch nước, khe nước từ núi đá vây xung quanh… cùng dồn xuống.

Một mó nước tự nhiên trong khe đá tại thôn Há Ía, xã Cán Chu Phìn được người dân sử dụng làm nước sinh hoạt hằng ngày. Ảnh: Kiên Trung.

Một mó nước tự nhiên trong khe đá tại thôn Há Ía, xã Cán Chu Phìn được người dân sử dụng làm nước sinh hoạt hằng ngày. Ảnh: Kiên Trung.

Xung quanh những chiếc hồ này, cây cối bao giờ cũng xanh tốt hơn hẳn. Khi là một chiếc hồ vuông vức như một hình vuông ở Pải Lủng; hay hình chữ nhật như hồ treo Sủng Là; chiếc hồ gần như hình bán nguyệt ở xã Sà Phìn, trên đường tới Dinh thự nhà Vương; hồ treo hình đa giác tại xã Thài Phìn Tủng, tiếp giáp bãi đá Mặt trăng…

Người vô tâm sẽ dễ dàng bỏ qua những hồ treo ấy, bởi vùng đất nào chả có một chiếc hồ nhân tạo hay thiên tạo, là nơi để chứa nước hay dự trữ nước. Người hiểu mảnh đất Hà Giang, yêu Cao nguyên đá, sẽ tìm hiểu để rồi òa lên thán phục: để có một chiếc hồ nhân tạo giữa vùng đất nổi tiếng khô hạn này là một quyết tâm chính trị, là sự nỗ lực khôn cùng về sức người, phải đổ mồ hôi, công sức thồ từng xe đá, gùi từng bao xi-măng, cõng từng can nước… để thi công những chiếc hồ treo. Khi thành hình, nó tích trữ nước ngọt của mùa mưa, để thành nguồn nước quý giá cho những ngày khô hạn.

Trên cao nguyên đá, đất canh tác rất quý. Từ ngàn năm, đời này qua đời khác, người Mông, Dao, Giáy, Nùng, Xuồng… chỉ cho nhau cách vun từng vốc đất vào trong hốc đá, hình thành nên những nương ngô giữa vùng núi đá bạt ngàn.

Nhưng, để cây sinh trưởng và ra hoa, đậu quả, ra bắp, thứ cần hơn nữa đó là nước. Nước trên xứ đá quý, hiếm như đất. Nước trên cao nguyên đá tai mèo, thậm chí còn quý hơn cả đất!

Những hồ treo trên lưng chừng núi

Công trình hồ treo trên Cao nguyên đá Hà Giang được “khởi xướng” đầu tiên bởi Tiến sỹ Vũ Cao Minh (Viện Địa chất Thủy văn). Đầu những năm 2000, Tiến sỹ Minh dành thời gian, tâm huyết nghiên cứu đề tài khoa học về phương án cứu hạn cho vùng cao nguyên đá. Trong rất nhiều phương án đưa ra, TS Minh chọn phương án “hồ treo”. Quãng năm 2002, chiếc hồ treo đầu tiên được thí điểm xây dựng tại xã Sà Phìn, thủ phủ của không gian đá Đồng Văn.

2 can nước được vợ chồng người đàn ông người Mông, bản Há Ía lấy về tích trữ làm nước sinh hoạt. Ảnh: Kiên Trung.

2 can nước được vợ chồng người đàn ông người Mông, bản Há Ía lấy về tích trữ làm nước sinh hoạt. Ảnh: Kiên Trung.

5 năm sau, 2007, trong một chuyến công tác lên Hà Giang, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khi đó đã lên tận nơi kiểm tra mô hình hồ treo. Thủ tướng kết luận đây là mô hình tốt, phù hợp với địa hình vùng núi đá, có hiệu quả, cần được nhân rộng. Ông quyết định cho Hà Giang xây dựng thêm 30 hồ treo nữa.

4 huyện núi đá phía Tây của Hà Giang (cũ), gồm Yên Minh, Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc từ lâu đã nổi tiếng là vùng khô hạn, thiếu nước sinh hoạt và nước sản xuất. Hằng năm, người dân nơi đây chỉ chủ động được nguồn nước vào mùa mưa (kéo dài 4 tháng), sau đó bước vào mùa khô kéo dài cho tới tháng 3 năm sau, 7/12 tháng là mùa khô hạn.

Dù lượng mưa trong vùng ở mức tương đối cao, trung bình 1.770mm/năm nhưng do địa hình đồi núi dốc, đá trơ không có khả năng thấm nước và giữ nước, lượng nước bốc hơi hàng năm tới 700mm (thông số quan trắc tại trạm quan trắc Phó Bảng). Những địa danh Sơn Vỹ, Thượng Phùng… (huyện Mèo Vạc cũ) là những vùng giáp biên nổi tiếng khô hạn, thiếu nước.

Để giải quyết cơn hạn, bà con thường lấy nước tự nhiên từ ao, hồ, khe suối về sử dụng trực tiếp, không qua xử lý nên không đảm bảo an toàn, vệ sinh chất lượng. Ngoài ra, ở những khu vực có nước ngầm, người dân đào giếng khoan, xây bể chứa nước quy mô gia đình. Hình thức này phổ biến tại một số xã như Lũng Phìn, Cán Chu Phìn, Mậu Duệ, Thanh Vân, Quyết Tiến... Một số hộ tự tích lũy bằng xây bể nước mưa, tích nước hay chứa nước bằng lu, can nhựa…

Công trình hồ treo tại thôn Lũng Cẩm Trên, xã Sủng Là được gắn biển trang nghiêm như một niềm tự hào. Ảnh: Kiên Trung.

Công trình hồ treo tại thôn Lũng Cẩm Trên, xã Sủng Là được gắn biển trang nghiêm như một niềm tự hào. Ảnh: Kiên Trung.

Từ mô hình hồ treo đầu tiên xây dựng năm 2002, cho tới nay, cao nguyên đá đã triển khai đề án xây dựng hàng trăm hồ treo nhân tạo tại những vùng khô hạn. Việc triển khai xây dựng hồ chứa được tính toán căn cứ theo điều kiện địa hình, địa chất của khu vực lựa chọn vị trí xây dựng hồ; quy mô, kết cấu phù hợp, vừa tính toán tới giá thành, chi phí xây dựng.

Điều quan trọng khác, dung tích hồ chứa phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu dùng nước dựa trên các căn cứ như số người dùng nước có tính đến yếu tố dự phòng cho tương lai; định mức dùng nước trung bình chia theo đầu người.

Một điều khác cũng cần lưu ý, đó là việc thiết kế, xây dựng hồ phải đặc biệt chú ý đến yếu tố chất lượng, mỹ thuật, bởi cả vùng cao nguyên đá - công viên địa chất vốn đã là một di sản tự nhiên ban tặng, được Unesco thừa nhận, vinh danh. Không thể để một công trình nhân tạo bê-tông hóa như một nét vẽ nguệch ngoạc làm xấu đi bức tranh tự vốn đã hoàn mỹ tự ngàn năm!

(Còn nữa)

Xem thêm
Hàng chục ngàn hộ nông dân thoát nghèo nhờ nguồn vốn tín dụng ưu đãi

AN GIANG Hàng chục ngàn hộ nghèo và đối tượng chính sách tại An Giang được vay vốn ưu đãi đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, góp phần giảm nghèo bền vững.

Bình luận mới nhất