Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nửa đầu năm nay, trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế toàn cầu, xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam đã nỗ lực tăng tốc và giữ được đà tăng trưởng. 7 tháng đầu năm, tổng giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt 39,24 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu nông sản đạt 21,49 tỷ USD, tăng 17%; xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1%; xuất khẩu thủy sản đạt 6,06 tỷ USD, tăng 13,8%; xuất khẩu lâm sản đạt 10,38 tỷ USD, tăng 8,6%.
Nhiều mặt hàng duy trì tăng trưởng
Trong 7 tháng đầu năm nay, trong số 11 mặt hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu chủ lực, có 8 mặt hàng giữ được sự tăng trưởng. Trong đó, có những mặt hàng tăng trưởng cao như cà phê, tôm, hồ tiêu và sản phẩm chăn nuôi.

Xuất khẩu tôm tăng trưởng mạnh trong 7 tháng đầu năm. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Cà phê là mặt hàng tăng trưởng vượt bậc với kim ngạch xuất khẩu đạt 5,9 tỷ USD, tăng 63,4% so với cùng kỳ năm 2024. Xuất khẩu cà phê tăng mạnh về kim ngạch là nhờ giá cà phê xuất khẩu trung bình ở mức cao (trên 5.600 USD/tấn, tăng 53,5% so với cùng kỳ). Bên cạnh đó là sự gia tăng chất lượng của cà phê Robusta Việt Nam và sự sụt giảm nguồn cung cà phê trên thế giới do biến đổi khí hậu và hiện tượng El Nino.
Xuất khẩu tôm đạt 2,5 tỷ USD trong 7 tháng, tăng 23,2% so với cùng kỳ. Trong đó, nhóm tôm hùm tăng trưởng rất mạnh (tăng 225,2%) đặc biệt tại các thị trường châu Á như Trung Quốc (đạt gần 400 triệu USD, tăng 224,5%), ASEAN (gần 3 triệu USD, tăng 152%), Đài Loan tăng trên 700%, UAE tăng trên 370%. Ngoài ra, xuất khẩu tôm hùm vào Hoa Kỳ cũng tăng trên 1.400%.
Xuất khẩu hồ tiêu cũng có sự tăng trưởng cao khi đạt 981 triệu USD (tăng 28,5%). Trong đó, xuất khẩu hồ tiêu tăng mạnh nhất vào thị trường Hoa Kỳ (tăng 28,4%, với thị phần 26%).
Sản phẩm chăn nuôi đạt kim ngạch xuất khẩu 338 triệu USD trong 7 tháng, tăng 21,9%. Mặt hàng này tuy kim ngạch xuất khẩu chưa cao, nhưng đã có chuyển biến tích cực trong Quý II nhờ tăng trưởng nhóm thịt và phụ phẩm (đạt hơn 100 triệu USD, tăng 26,5%).
Các mặt hàng duy trì tăng trưởng là gỗ và sản phẩm gỗ (9,6 tỷ USD, tăng 7,3%); hạt điều (2,7 tỷ USD, tăng 15,7%); cao su (đạt 1,5 tỷ USD, tăng 11,8%); cá tra (1,1 tỷ USD, tăng 8,1%); sắn và sản phẩm sắn (746 triệu USD, tăng 1,4%).
Nhiều thị trường tăng trưởng mạnh
Trong 7 tháng đầu năm 2025, trong khi xuất khẩu nông lâm thủy sản sang thị trường Trung Quốc tăng trưởng thấp, suy giảm tại khu vực ASEAN, thì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được duy trì tại thị trường Hoa Kỳ và tăng trưởng mạnh mẽ ở các khu vực như EU, Nhật Bản, Trung Đông, châu Phi.
Điều này cho thấy trong quý II vừa qua, các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp đã rất chủ động, nhạy bén, nỗ lực duy trì và mở rộng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực sang tất cả các thị trường, bao gồm cả những mặt hàng có giá trị xuất khẩu còn thấp nhưng có tiềm năng phát triển như sản phẩm chăn nuôi chế biến.

Xuất khẩu gạo qua cảng biển ở TP.HCM. Ảnh: Thanh Sơn.
Đồng thời, các doanh nghiệp đã tăng tốc thực hiện đơn hàng xuất khẩu các mặt hàng lợi thế như gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, cà phê, hồ tiêu, hạt điều tại khu vực thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và chuyển hướng xuất khẩu sang các khu vực thị trường tiềm năng như châu Phi, Trung Đông đối với một số nhóm hàng đang gặp khó khăn tại thị trường truyền thống như gạo, rau quả.
Trước những diễn biến bất định của thị trường thế giới, việc các doanh nghiệp chủ động đẩy nhanh tiến độ thực hiện các hợp đồng đã ký kết xuất khẩu sang Hoa Kỳ trong thời gian chưa áp dụng thuế đối ứng cũng như tích cực tìm kiếm, chuyển dịch sang thị trường xuất khẩu khác, tăng cường các thị trường truyền thống tiềm năng (Trung Quốc, EU) trong thời gian qua đã góp phần vào kết quả tăng trưởng xuất khẩu tốt trong 7 tháng đầu năm 2025.
Xuất khẩu trên 25 tỷ USD trong 5 tháng cuối năm
Ngày 27/6/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Quyết định số 2396/QĐ-BNNMT về kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu nông lâm nghiệp và thủy sản năm 2025 để đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 65 tỷ USD. Trong đó: cà phê 7,5 tỷ USD; cao su 3,3 tỷ USD; chè 270 triệu USD; gạo 5,7 tỷ USD; rau quả 7,6 tỷ USD; hạt điều 4,5 tỷ USD; hồ tiêu 1,35 tỷ USD; sắn và sản phẩm sắn 1,3 tỷ USD; sản phẩm chăn nuôi 550 triệu USD; thủy sản 10,5 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ 18,5 tỷ USD.
Với giá trị kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản và thủy sản 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt 39,2 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu trong 5 tháng cuối năm cần đạt trên 25 tỷ USD để có thể đạt và vượt mục tiêu cả năm của ngành. Tuy nhiên, những tháng cuối năm được dự báo có nhiều yếu tố thách thức tác động đến xuất khẩu, trong đó có thuế đối ứng của Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2025.
Trước tình hình đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đưa ra yêu cầu chung là duy trì tiếp tục xuất khẩu và giữ vững, ổn định thị trường truyền thống, đồng thời khai thác, chuyển hướng tới các thị trường tiềm năng. Tận dụng mọi cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu trong 5 tháng còn lại của năm 2025 để gia tăng tối đa giá trị xuất khẩu, tìm kiếm thị trường mới hoặc đàm phán giảm thuế. Tích cực chuyển dịch các nhóm ngành hàng gặp khó khăn khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ sang các thị trường tiềm năng khác có hiệu quả hơn.
Giải pháp chung để thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản trong 5 tháng còn lại của năm nay là tiếp tục phát huy vai trò then chốt của nhà nước trong việc đồng hành, định hướng, hỗ trợ doanh nghiệp, người sản xuất thông qua cơ chế, chính sách nhằm duy trì và bảo vệ sản xuất, duy trì xuất khẩu, giữ thế cạnh tranh cho nông sản trong bối cảnh biến động thương mại toàn cầu. Chú trọng các chính sách tín dụng, tỷ giá, giảm chi phí logistics, giảm thủ tục hành chính, giảm phí, lệ phí…để tạo điều kiện thuận lợi và chia sẻ gánh nặng với doanh nghiệp, người nông dân.
Cập nhật kịp thời, nhanh chóng thông tin diễn biến thị trường, làm rõ thông tin về các quy định mới (thuế, định nghĩa về hàng trung chuyển,…), nhằm giúp các hiệp hội, doanh nghiệp, người sản xuất nắm bắt, tiếp cận, kịp thời có các phương án xử lý.
Kiên trì, tiếp tục đàm phán giảm thuế đối với các dòng hàng mà Hoa Kỳ không sản xuất được, phải nhập khẩu (cà phê, hồ tiêu, hạt điều).
Tiếp tục duy trì xuất khẩu tại thị trường truyền thống và bổ sung các dòng sản phẩm phù hợp, bổ sung một số nhóm hàng có thể gia tăng giá trị xuất khẩu ở thị trường tiềm năng, như hàng thủy sản sang Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN; gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, EU; mặt hàng rau gia vị, trái cây tươi sang Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN; cà phê sang Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN.
Trong 7 tháng qua, có 3 mặt hàng giảm về tăng trưởng là rau quả, gạo và chè. Xuất khẩu rau quả chỉ đạt 3,8 tỷ USD, giảm 1,1%, nguyên nhân chủ yếu là hầu hết các mặt hàng trái cây có giá trị xuất khẩu lớn như sầu riêng, thanh long, xoài... đều giảm tại thị trường Trung Quốc.
Xuất khẩu gạo 7 tháng đạt 2,8 tỷ USD, giảm 16,3%, chủ yếu do giá gạo xuất khẩu giảm mạnh do tồn kho cao tại những nước nhập khẩu lớn như Philippines và Indonesia, và sự cạnh tranh gay gắt với các nước xuất khẩu lớn như Ấn Độ, Thái Lan.