Việc truy xuất nguồn gốc cà phê theo Quy định chống mất rừng của EU (EUDR) đang là rào cản lớn với hàng triệu hộ nông dân Việt Nam. Trong khi doanh nghiệp xuất khẩu đã bắt đầu chuẩn hóa hồ sơ, thì ở đầu chuỗi, nhiều hộ nông dân vẫn chưa đủ năng lực ghi chép và xác lập quyền sử dụng đất theo yêu cầu.
Ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia cấp cao của tổ chức Forest Trends cho rằng, nếu không có các cơ chế hỗ trợ truy xuất phù hợp với trình độ và điều kiện thực tế của nông dân, nhóm sản xuất chủ lực này sẽ trở thành “điểm nghẽn” khiến ngành cà phê khó giữ được thị phần tại thị trường EU.

Ông Tô Xuân Phúc: 'Nông dân không thể làm truy xuất như doanh nghiệp'. Ảnh: Forest Trends.
Truy xuất vẫn là mắt xích yếu nhất
Khảo sát thực hiện đầu năm 2025 tại 95 hộ dân ở 6 tỉnh trọng điểm cà phê cho thấy, gần 60% hộ không hề ghi chép trong quá trình thu hái và hơn một nửa không lưu giữ thông tin về thời điểm bán sản phẩm. Trong khi đó, EUDR yêu cầu truy xuất đến từng lô đất, gắn với thời gian và khối lượng sản phẩm.
“Không thể yêu cầu nông dân làm truy xuất như doanh nghiệp. Nhưng nếu không có dữ liệu nào, thì doanh nghiệp cũng không thể truy ngược để chứng minh nguồn gốc hợp pháp, không gây mất rừng theo quy định”, ông Phúc nhận định.
Báo cáo do Forest Trends và TAVINA thực hiện cũng chỉ ra, trên 90% diện tích cà phê tại Việt Nam thuộc về nông hộ, mỗi hộ bình quân chỉ sở hữu khoảng 1,9 ha và thường canh tác trên 2-3 lô đất rải rác. Khoảng 34% hộ khảo sát có dưới 1 ha. Điều này khiến việc quản lý, ghi chép và truy xuất nguồn gốc trở nên phức tạp.
Bên cạnh đó, 53,8% nông hộ khảo sát không ghi chép khi thu hái cà phê, 86% số hộ có ghi chép lại gộp chung cho mọi lô đất, không phân biệt nguồn gốc cụ thể. Chỉ có 10% hộ thực hiện phân tách luồng cung giữa các vườn, chủ yếu là các hộ tham gia mô hình cà phê bền vững do doanh nghiệp yêu cầu.
Từ thực tế này, theo ông Phúc, cần sớm xây dựng các cơ chế ghi chép tối giản nhưng đủ tiêu chuẩn EUDR. Đây là đề xuất suy luận từ chính phân tích của ông về sự thiếu hụt trong ghi chép và năng lực kỹ thuật tại hộ dân. Những cơ chế này có thể là sổ tay ghi chép theo vụ mùa, biểu mẫu in sẵn dễ điền, hoặc ứng dụng di động đơn giản, được hỗ trợ bởi hợp tác xã, doanh nghiệp thu mua hoặc cán bộ khuyến nông.
Ngoài truy xuất, vấn đề pháp lý đất đai cũng là rào cản lớn. Khảo sát cho thấy khoảng 40% số hộ chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), chủ yếu là hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó, nhiều diện tích được gia đình chia từ nhiều năm nhưng chưa được chính quyền xác nhận. Mặt khác, có trường hợp giấy tờ pháp lý không khớp với thực tế ranh giới canh tác, gây khó khăn cho xác minh khoảng cách đến rừng - một tiêu chí rủi ro của EUDR.
“Việc thiếu sổ không có nghĩa là đất không hợp pháp. Nhưng nếu không được xác nhận, thì cũng không thể đưa vào hồ sơ tuân thủ”, ông Phúc phân tích. Ông đề xuất chính quyền địa phương cần ban hành cơ chế xác nhận tính hợp pháp cho các trường hợp sử dụng đất ổn định nhưng chưa có sổ, để tránh làm gián đoạn chuỗi cung ứng.

Thị trường EU chiếm khoảng 40% lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Ảnh: NNMT.
Nghiên cứu của Forest Trends cũng chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa hộ người Kinh và hộ đồng bào. Trong khi 82% hộ người Kinh có sổ đỏ, con số này ở hộ đồng bào chỉ là 55%. Khoảng cách từ lô đất tới rừng ở hộ đồng bào cũng ngắn hơn, trung bình 4,6 km so với gần 10 km ở hộ người Kinh, khiến nguy cơ bị đánh giá “rủi ro cao” theo tiêu chí EUDR lớn hơn.
Bên cạnh đó, quy mô đất nhỏ lẻ, phân tán nhiều lô, lại càng làm tăng áp lực ghi chép và xác minh. Tại Sơn La, nơi khảo sát cho thấy trung bình mỗi hộ có hơn 4 lô đất, gần như không có hộ nào ghi chép riêng cho từng lô.
Từ đó, ông Phúc đề xuất các chính sách hỗ trợ cần được thiết kế phù hợp từng nhóm hộ, không áp dụng một mô hình chung. Với các hộ đồng bào, cần tăng cường hỗ trợ pháp lý, hướng dẫn đo đạc tọa độ và ưu tiên truy xuất theo nhóm hộ hoặc cộng đồng. Với các hộ có liên kết với doanh nghiệp hoặc hợp tác xã bền vững, có thể giao thêm quyền truy cập và cập nhật dữ liệu vào hệ thống truy xuất tập trung.
Doanh nghiệp không thể đơn độc
Khảo sát cũng cho thấy, chỉ khoảng 38% số hộ có liên kết với doanh nghiệp thu mua, đây là nhóm có khả năng đáp ứng EUDR tốt hơn, nhờ có hỗ trợ tập huấn, ghi chép và kiểm soát chất lượng đầu ra. Việc mở rộng các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị, từ cung ứng vật tư đầu vào tới thu mua có truy xuất đầu ra, là một hướng đi quan trọng cần được thúc đẩy.
Dù vậy, vẫn có tới gần 60% hộ không liên kết với doanh nghiệp và hơn 80% không tham gia HTX, 78,8% thu nhập trung bình của các hộ vẫn đến từ cà phê, tương đương khoảng 590 triệu đồng mỗi năm. Điều này cho thấy sự phụ thuộc lớn vào ngành hàng này, đồng thời phản ánh nguy cơ mất thị trường nếu không đáp ứng EUDR.
Trong số 95 hộ được khảo sát, chỉ 56% từng nghe nói về EUDR, nhưng gần 80% không hiểu rằng quy định yêu cầu không được phá rừng, và gần 90% không biết yêu cầu đất phải hợp pháp. Nguồn thông tin chủ yếu đến từ đại lý thu mua và báo mạng, cho thấy vai trò quan trọng của các “mắt xích trung gian” trong truyền đạt chính sách.

Nhóm nông hộ nhỏ lẻ đang cần những hướng dẫn cụ thể, thích ứng với EUDR. Ảnh: Nguyễn Nga.
Từ thực tế này, đại diện IDH (Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững) nhận xét, việc các đại lý thu mua không thể ghi nhận cụ thể sản phẩm được mua từ lô đất nào khiến hệ thống truy xuất bị gián đoạn. Do đó, IDH đã thí điểm một mô hình truy xuất từ đại lý xuống tận nông hộ, dự kiến triển khai rộng rãi từ tháng 10/2025.
Ngoài ra, cần xem xét thành lập chương trình cấp quốc gia về hỗ trợ nông hộ đáp ứng EUDR, với sự tham gia của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, chính quyền địa phương, các tổ chức phát triển và doanh nghiệp.
“Không thể trông chờ hộ dân tự làm trong một quy định kỹ thuật cao như EUDR. Họ cần được hỗ trợ đúng chỗ, đúng mức và đúng thời điểm”, chuyên gia Tô Xuân Phúc nhấn mạnh.
Ông cũng khẳng định, với thời hạn cuối năm 2025 đã gần kề, cần sớm triển khai các chương trình hành động cấp vùng và ngành nhằm nâng cao năng lực hộ, tăng tốc cấp giấy chứng nhận đất và thiết lập hệ thống truy xuất phù hợp với quy mô sản xuất nhỏ lẻ. Nếu không có hành động quyết liệt, nguy cơ cà phê Việt Nam bị từ chối tại thị trường EU là điều có thể xảy ra.