Trông nước mà nuôi tôm, giữ rừng
Chưa đợi đến đỉnh nắng tháng Sáu, Trần Văn Huấn đã một mình chèo xuồng, lặng lẽ len giữa rãnh nước ven rừng ngập mặn. Vừa tách mái chèo, anh vừa nghiêng đầu ngắm dòng nước. “Chắc sắp tới con nước no”, anh lẩm bẩm. Với Huấn và bao người nuôi tôm ở vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thủy, canh nước không đơn thuần là công việc, đó là nghệ thuật sinh tồn, là sợi dây giữ lấy sự sống cho cả rừng, đầm, người và chim.

Anh Trần Văn Huấn, người nuôi tôm quảng canh tại vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thủy. Ảnh: Bảo Thắng.
“Tôm ở đây không ăn cám. Chúng sống nhờ rong, nhờ mùn, nhờ sinh vật phù du. Những thứ ấy cũng sống nhờ nước. Nước mà hỏng mất hết”, anh nói chậm rãi, mắt vẫn không rời mặt nước đang nhấp nhô phản nắng.
Trong mô hình nuôi quảng canh kết hợp giữ rừng, nước là mạch sống. Mỗi con triều, mỗi lần đóng, mở cống là một lần đặt cược vào sự thịnh suy của hệ sinh thái. Nước vào đều, oxy dồi dào, độ mặn, pH ổn định, sinh vật phù du sinh sôi, rong tảo bén đáy, tôm có cái ăn. Nước ra đều, đáy sạch, chất thải tôm được cuốn đi, mầm bệnh khó sinh.
Theo các nghiên cứu của Vườn quốc gia Xuân Thủy, chỉ cần độ mặn vượt 25 phần nghìn hoặc pH dao động ngoài khoảng 7.5-8.5, tôm dễ bị sốc môi trường, tỷ lệ sống giảm rõ rệt. Ngược lại, nếu biết giữ, vùng nước ấy sẽ gọi về cả chim trời, khiến những bãi bồi tưởng câm lặng lại hóa sôi động bởi tiếng cò trắng di trú theo mùa.
Huấn, người cả đời “đắp bồn, thẩm bùn”, thuộc từng nhịp nước như lòng bàn tay. “Canh nước phải canh bằng tai, bằng mắt và bằng cả linh cảm. Nghe tiếng cống biết nước sắp nghẽn, nhìn màu nước biết nước no hay nước đói. Có những hôm nước đổi dòng chỉ trong một giờ, chậm tay là đi tong cả vụ”, anh bày tỏ.
Nhớ lại đêm trước bão Yagi, mắt Huấn lặng đi. “Tưởng nhỏ mà không nhỏ. Nước dâng không kèn không trống, từ sông ùa về như bão ngầm. Mặn gắt, nước đục. Tôi không ngủ. Cách hai tiếng lại bật dậy, mở cống, rồi lại đóng. Mở muộn, nước xấu chui vào. Mở vội, rong rêu theo dòng trôi mất”, anh nhớ lại, mắt vẫn như dán chặt vào mặt nước hôm nào. Đó có lẽ là một trong những đêm dài nhất đời nuôi tôm của chàng thanh niên tóc đã nhuộm vẻ phong trần.
Nhưng với Huấn, giữ nước không chỉ là giữ tôm. Giữ nước còn là giữ rừng. Rừng mà chết, chim bay đi. Chim không về, tôm chẳng còn sinh vật để ăn. Đầm rồi cũng cạn dần. Cái vòng đó nó chặt lắm, mà nó chặt bằng tình với đất này chứ không phải lý thuyết gì đâu.

Chỗ ở của Huấn nhìn từ trên cao. Ảnh: Bảo Thắng.
Người Giao An gọi đó là “đọc đầm”. Không giáo trình, không sơ đồ kỹ thuật. Chỉ có bước chân in bùn, tiếng lá rơi, bóng chim nghiêng qua ráng chiều… Những dấu hiệu nhỏ nhoi nhưng đủ để họ biết khi nào nên rút nước, khi nào phải giữ lại. Người đi qua vùng đất ấy, nếu không ở lại, sẽ chẳng bao giờ hiểu được vì sao một tiếng chim gọi chiều cũng đủ khiến người canh nước giật mình.
Và rồi, câu chuyện canh nước không còn là chuyện nghề. Đó là cách người Giao An gìn giữ sinh kế và gìn giữ luôn cả mảnh đất mà họ gọi là nhà, một vùng sinh quyển nơi tôm, nước, rừng và người nương tựa nhau để tồn tại, để sống bền vững với thiên nhiên.
Tảo tần khai thác thủ công
Không chỉ có tôm, những sản vật của vùng nước lợ như don, lư, rau câu… cũng là nguồn sống bền bỉ của cư dân các xã vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thủy. Cứ mỗi khi nước rút, người dân lại lội ra đầm bãi, mang theo chiếc cào tre, tay lưới… để nhặt nhạnh từng mẻ nhỏ từ thiên nhiên.
Nghề khai thác thủy sản tự nhiên nơi đây không ồn ào máy móc, không thuốc, không xung điện, không hút đáy. Mọi dụng cụ đều thủ công, thô mộc: cào tay, vợt tre, cần câu. Tất cả được quy định rõ, hệt như giấy trắng mực đen trong hương ước cộng đồng, do chính người dân và Ban quản lý Vườn cùng nhau lập nên.
Một trong những người gìn giữ nhịp sống ấy là chị Nguyễn Thị Mười, xã Giao Thiện. Mỗi sáng nước vừa rút, chị lại lội ra bãi bùn. Chiếc cào đơn sơ kéo từng lớp đất ẩm tìm don, loài nhuyễn thể nhỏ nhưng giá trị cao, sống sâu trong nền bãi lầy. “Hôm nào bắt được nhiều thì bán, ít thì để ăn. Miễn là rừng còn, nước sạch, thì mai vẫn còn don mà cào”, chị nói, mắt không rời khỏi vết bùn đang xăm xắn cào.

Một chiếc cống xả nước giữa đầm nuôi tôm và phía ngoài biển. Ảnh: Bảo Thắng.
Ở Giao Thiện, phụ nữ như chị Mười không chỉ nuôi gia đình bằng tay cào tre, mà còn lặng lẽ góp phần bảo tồn tài nguyên ngập mặn bằng cách “khai thác có trách nhiệm” mỗi ngày.
Theo ông Vũ Quốc Đạt, Phó giám đốc Vườn quốc gia Xuân Thủy, mỗi ngày có khoảng 1.000 lao động từ 5 xã vùng đệm vào rừng khai thác thủy sản tự nhiên. Thời điểm vàng là từ 5 giờ sáng đến giữa trưa, khi thủy triều rút, để lộ bãi bùn trù phú. Ban Quản lý Vườn cùng chính quyền địa phương lập các tổ tự quản, tập huấn, tuyên truyền… nhằm bảo tồn sinh kế gắn với bảo vệ tài nguyên. Không có chuyện tận diệt, cũng không có những vụ đánh bắt “vét cạn”, bởi tất cả đều hiểu rằng, rừng còn thì nghề còn. Rừng sống, thì mình sống.
Từ tôm lấn vẹt đến tôm giữ vẹt
30 năm trước, vùng đất này từng được chọn làm thí điểm cho một dự án lớn: lấn biển, lập 3 xã mới ven biển do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (cũ) đề xuất. Trong đó, xã Giao Hưng, trùng địa giới với Giao An, được quy hoạch. Nhưng rồi kế hoạch định cư ven biển không thành do điều kiện thủy văn bất lợi, nguy cơ xâm nhập mặn cao và thiếu cơ sở hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu. Chính sự "thất bại nửa vời" ấy lại mở ra một hướng đi mới: Nuôi tôm không phá rừng, sinh kế gắn liền bảo tồn.
Người dân không xây nhà, chỉ dựng những căn chòi nhỏ trông đầm. Và rồi, từ truyền thống “vẹt lấn biển”, một cách âm thầm, người dân đưa tôm vào rừng. “Tôm lấn vẹt” rồi “tôm giữ vẹt”, trở thành một tiến trình tự nhiên, nơi con người sống cùng, chứ không phải sống trên rừng.
Thay vì nuôi công nghiệp, bà con chọn mô hình quảng canh, thả đa loài: tôm, cua, cá mú… Họ không can thiệp sâu vào môi trường, không dùng thức ăn công nghiệp. Rong tảo, mùn bã, sinh vật phù du trong đầm tự tái tạo thức ăn cho tôm. Không cần đầu tư lớn, mỗi hecta vẫn mang lại thu nhập khoảng 30-40 triệu đồng mỗi năm, đủ để sống, giữ đầm, giữ rừng.

Nhờ sự hỗ trợ của hệ thống khuyến nông, việc nuôi tôm quảng canh của các hộ dân sống tại vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thủy được hướng dẫn đầy đủ về kỹ thuật. Ảnh: Bảo Thắng.
Ngoài nuôi tôm, nhiều hộ ở Giao An, Giao Thiện còn có nghề nhặt rau câu - loại rong biển mọc tự nhiên ven bãi. Mỗi ngày nông nhàn, chỉ cần vài giờ có thể thu được 5-7 tạ rau, giá công khoảng 200.000 đồng. Không nhiều, nhưng đều đặn. Quan trọng hơn, nó không làm tổn thương đến môi trường sống xung quanh.
Toàn bộ hệ sinh thái đất ngập nước ở Xuân Thủy là một tổ hợp hài hòa giữa khai thác - bảo vệ - sinh tồn. Nơi ấy, chim di cư từ tận Bắc Á bay về trú ngụ, hệt như những “kiểm lâm trên trời”, báo hiệu cho sự khỏe mạnh của vùng đất.
Mỗi tiếng chim trời gọi về Xuân Thủy không chỉ là lời báo mùa, mà còn là dấu hiệu cho thấy chiến lược bảo tồn gắn với sinh kế đã đi đúng hướng. Khi con người sống thuận theo tự nhiên, tự nhiên cũng không phụ lòng người.