Nơi ra đời nguồn vật liệu quý
Ở miền Tây, mùa này nước nổi ngập trắng các cánh đồng lúa, bà con nông dân đang tranh thủ ngâm đồng, rước phù sa, chuẩn bị cho vụ lúa đông xuân mới. Con đường đất nhỏ dẫn vào khu trại thực nghiệm chọn tạo giống lúa của nông dân Hoa Sỹ Hiền ở ấp Tân Phú B, xã Tân An (tỉnh An Giang) vì thế cũng trở nên lầy lội. Hai bên đường, cỏ sậy, cây tạp mọc um tùm. Mỗi khi mưa xuống, nước ngập thành đồng, người đi không khéo có thể té ngã bất cứ lúc nào.
Giữa đồng, ông Hiền dựng một chòi lá đơn sơ làm nơi nghiên cứu, thử nghiệm và giảng dạy sinh viên chuyên ngành nông học về công tác chọn tạo giống lúa. Cạnh bên là khu đất trên 4.000m2, được ông chia thành từng khu vực riêng biệt để phục vụ trồng thử nghiệm giống chịu mặn, nơi trồng vật liệu lai ban đầu, nơi ghi chép kết quả. Mùa nào không có sinh viên đến học, ông lại tiếp tục những thí nghiệm mới, tự tay đo mặn, thử nước, ghi nhận từng giai đoạn sinh trưởng của lúa.
Chòi lá đơn sơ giữa đồng là nơi nông dân Hoa Sỹ Hiền (bên trái) cùng cộng sự hàng ngày cần mẫn chọn tạo giống lúa. Ảnh: Kim Anh.
Cơ duyên đến với nghề chọn tạo giống của ông Hoa Sỹ Hiền cũng rất tình cờ. Năm 1997, ông được Hội Nông dân tỉnh An Giang vận động tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về “1 phải 5 giảm”, “3 giảm 3 tăng”, học làm lúa giống xác nhận… Những kiến thức ban đầu ấy đã khơi dậy niềm say mê nghiên cứu trong nông dân này.
Đến năm 2004, ông tiếp tục tham gia lớp kỹ năng chọn tạo giống cộng đồng do Trung tâm Khuyến nông tỉnh An Giang phối hợp với Viện Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Canh tác (nay là Viện Mekong, thuộc Trường Đại học Cần Thơ) mở lớp. Từ đó, ông đã phát triển nhiều ý tưởng và “tập tành” lai tạo giống lúa. Một quyết định được xem là khá táo bạo, khi đây là lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao.
2 năm sau đó, ông Hoa Sỹ Hiền cho ra đời giống lúa đầu tiên và đặt tên là TC1 (TC là từ viết tắt của Tân Châu - nơi ông sinh sống). Giống lúa này có đặc tính cứng cây, chống chịu sâu bệnh tốt, năng suất ổn định từ 600-700kg/1.000m2. Tuy nhiên, vì thời gian sinh trưởng dài (khoảng 105 ngày), nên giống lúa TC1 chỉ được nông dân đón nhận thời gian đầu, về sau bà con lựa chọn những giống lúa ngắn ngày hơn.
Nông dân Hoa Sỹ Hiền - người sở hữu 63 giống lúa, phục vụ sản xuất và nghiên cứu khoa học. Ảnh: Kim Anh.
Những năm sau này, nông dân này tiếp tục nghiên cứu dòng lúa chịu mặn, khi chứng kiến nhiều nông dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang (cũ) nay là xã Hòn Đất, tỉnh An Giang “khóc ròng” vì lúa chết do nhiễm mặn. Để nghiên cứu giống lúa này, nông dân Hoa Sỹ Hiền tự tay xây dựng mô hình thử nghiệm, xác định độ mặn mong muốn, rồi tạo môi trường nước mặn tương tự để đánh giá khả năng chịu mặn của cây lúa.
Ông Hiền kể lại: “Ở xã Tân An nước ngọt quanh năm, lấy đâu ra nước mặn để thử nghiệm trồng lúa. Tôi nhờ một số người quen lấy được 4 lít nước biển về là thử mô hình. Hết nước biển, tôi tiếp tục dùng muối để pha tạo độ mặn cho nước. Mô hình chia thành 3 ô, tương ứng với 3 nghiệm thức. Nghiệm thức 1, độ mặn khoảng 5 phần nghìn; nghiệm thức 2, có độ mặn là 10 phần nghìn; nghiệm thức 3, độ mặn là 15 phần nghìn”.
Sau hơn 10 năm kiên trì, ông thành công cho ra đời giống lúa TC7, có khả năng chịu mặn từ 3-5 phần nghìn, phù hợp với các địa phương vùng ven biển ĐBSCL. Tháng 9/2025, TC7 chính thức được Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cấp bằng bảo hộ giống cây trồng mới.
Về sau, ông Hoa Sỹ Hiền đặt lại ký hiệu cho các giống lúa của mình là “SH” – viết tắt tên ông. Hơn 20 năm làm nghề, ông Hiền đã chọn tạo thành công 63 giống lúa, từ giống lúa TC1-TC30 và SH31-SH63. Trong đó, nhiều giống được công nhận và thương mại hóa như TC29, SH31, SH61, SH63… và được doanh nghiệp chuyển giao cho nông dân sản xuất.
Cánh đồng thực nghiệm chọn tạo giống lúa của nông dân Hoa Sỹ Hiền. Ảnh: Kim Anh.
Hiện tại, ngân hàng gen giống lúa của Trường Nông nghiệp (Đại học Cần Thơ) đang lưu giữ 17 giống lúa do ông Hoa Sỹ Hiền chọn tạo. Như một sự ghi nhận cho những đóng góp của nông dân Hoa Sỹ Hiền cho ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam nói chung và vùng ĐBSCL. Đồng thời, đây sẽ là nguồn vật liệu quý phục vụ cho công tác chọn tạo giống lúa về sau.
Những đóng góp thầm lặng
Ông Hoa Sỹ Hiền vẫn nhớ như in thời điểm năm 2021, khi vùng Nam Thái Sơn (huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang) nay là xã Hòn Đất, tỉnh An Giang xảy ra hiện tượng lúa bị nhiễm mặn, hàng trăm hecta hầu như mất trắng. Lúc đó, ông được ngành nông nghiệp địa phương mời đến khảo sát tình hình.
Đến đây, ông trực tiếp lấy tay gạt lớp đất mặt, sau đó lấy đất phía dưới nếm thử để xác định mức độ ảnh hưởng. “Sau khi nếm thử, tôi xác định đất ở đây vừa bị mặn, vừa bị nhiễm phèn, chỉ còn cách là tạo một tuyến kênh bao hết cả khu vực, rồi xẻ kênh ra nhỏ và làm thêm con kênh dẫn nước ngọt từ An Giang qua cánh Hòn Đất để đẩy lượng phèn và mặn trong đất ra”, ông Hoa kể lại.
Chính trải nghiệm thực tế và đam mê kỹ thuật nông học, đã giúp ông Hiền đã phát triển nhiều ý tưởng, cách nhìn mới.
Giống lúa lứt đỏ được ông Hoa Sỹ Hiền chọn tạo từ các dòng lúa cỏ. Ảnh: Kim Anh.
Năm 2010, lần đầu tiên ông thử nghiệm lai tạo 4 dòng lúa cỏ quanh ruộng, cho ra đời giống lúa lứt đỏ và được đặt tên TC10. Theo ông, các dòng lúa cỏ trên có một số đặc điểm nổi trội là: hạt dài, tròn, màu đỏ… Sau khi chọn tạo, những tính trạng tốt sẽ được biểu hiện, nhờ đó giống TC10 có hạt dài, thời gian sinh trưởng ngắn, đặc biệt là không rụng. Cũng từ kết quả nghiên cứu này, ông Hiền rút ra được kết luận khá quan trọng: lúa cỏ chính là tiền thân, “tổ tiên” của lúa trồng và đang tồn tại những đặc tính quý có thể khai thác, phục vụ cho công tác nghiên cứu, chọn tạo giống lúa.
Ngoài công việc nghiên cứu, nông dân Hoa Sỹ Hiền còn người người “truyền lửa” đam mê cho cả ngàn sinh viên Trường Đại học Cần Thơ và Đại học An Giang về chuyên ngành nông học tại khu trại thực nghiệm nhỏ của ông.
Các sinh viên được học tập về cách cấy lúa, các khâu trong mùa vụ từ khi gieo sạ cho đến thu hoạch, phương pháp xử lý khi gặp sâu bệnh, phương pháp nhận biết và phân tích mẫu tài nguyên đất, nước.
Mỗi lời dạy, ông Hoa Sỹ Hiền đều nhắc nhở: “Đối với nghề trồng lúa, nông dân ngoài việc chăm bón cho cây lúa cũng phải bồi bổ cho tài nguyên đất. Bởi, đất nuôi cây, cây nuôi người, con người phải nuôi cây và nuôi cả đất, nước. Như vậy nông nghiệp mới hài hòa và bền vững”.
Với ông, nông nghiệp hiện đại phải kết hợp hài hòa giữa hóa học, hữu cơ và vi sinh. Bởi hữu cơ và vi sinh là thức ăn cho đất; còn hóa học là thức ăn cho cây. Không thể loại bỏ cái nào, vì mỗi thứ đều có chức năng riêng.
Một góc trong khu trại thực nghiệm được nông dân Hoa Sỹ Hiền tận dụng để hướng dẫn các sinh viên về nông học. Ảnh: Kim Anh.
Khoảng 1 năm trước, khi điều kiện bảo quản giống lúa của gia đình không đảm bảo, ông Hoa Sỹ Hiền sáng tạo ra cách lưu giữ, bảo quản hạt giống dựa trên kinh nghiệm của ông bà xưa, bằng cách hút chân không, chôn sâu khoảng 1,5m vào trong lòng đất, yếm khí. 2 năm một lần, ông sẽ đào hạt giống lên để kiểm tra sức sống của hạt.
Dù chưa tạo nên những đột phá lớn cho ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam, nhưng “kho báu” 63 giống lúa do chính nông dân Hoa Sỹ Hiền dày công tạo ra, đã để lại nguồn vật liệu quý về sau cho công tác chọn tạo giống lúa sau này.
Với ông Hiền, chọn tạo giống lúa không chỉ là nghề, mà là cái duyên gắn bó gần cả đời người. Như thế mới thấy một tinh thần học hỏi, sáng tạo và niềm tin bền bỉ của người nông dân miền Tây trên con đường làm nông.




























