Nơi điện là thứ xa xỉ
Giữa trưa, khi nắng đã lên đến đỉnh đầu, bước vào nhà anh Lý Văn An, Trưởng thôn Trung Tiến (xã Ngân Sơn, tỉnh Thái Nguyên), vẫn tối om om. Lớp lông đen tuyền của chú mèo con như hòa vào bóng tối, chỉ thấp thoáng lộ ra khi ánh sáng chen được qua khe cửa.
Những ngôi nhà nơi đây quanh năm chìm trong bóng tối, mái tranh thấp và tường đất như hòa vào màu núi, khiến khó phân biệt đâu là nhà, đâu là bóng rừng. Không gian yên ắng tuyệt đối, không một tiếng kêu của quạt, không một ánh sáng từ bóng đèn điện, chỉ có âm thanh của gió lùa qua mái tôn, tiếng lá rơi xào xạc trên nền đất và đôi khi là tiếng bước chân nhẹ nhàng của vật nuôi.
Căn nhà chìm trong bóng tối của anh Lý Văn An. Ảnh: Trung Hiếu.
“Giao thông và điện vốn là những thứ gắn liền với văn minh của con người. Mấy năm gần đây đường thì có rồi, dân đi lại đỡ vất vả hơn, nhưng điện thì vẫn chưa đến. Nhà cửa quanh năm tối om, trẻ con học bài, người lớn sinh hoạt đều phụ thuộc vào ánh sáng tự nhiên hoặc đèn dầu”, anh Lý Văn An đứng bên hiên nhà, ánh mắt hướng ra con đường heo hút, vừa chia sẻ, vừa nói lên tiếng lòng của những con người vẫn đang chờ mong ánh sáng của sự văn minh.
Thật vậy, thôn Trung Tiến hiện có 44 hộ dân nhưng vẫn còn đến 20 hộ chưa được nối điện. Do chưa có điện, mọi phương tiện sinh hoạt và sản xuất của người dân đều phải chạy bằng xăng. Các hộ sống rải rác, mỗi cụm khoảng 5-6 nhà trên một quả đồi khiến việc đi lại và giao thương trở nên hiếm hoi. Sinh kế người dân nơi đây chủ yếu dựa vào trồng lúa, ngô và thuốc lá. Mỗi năm, họ cũng nuôi thêm vài con lợn nhưng dịch bệnh năm nay khiến nhiều nhà không dám nhập giống mới.
Với người dân nghèo, ánh điện vẫn là thứ xa xỉ. Ảnh: Trung Hiếu.
Anh Lý Văn An chia sẻ với sự mộc mạc, chân chất: “Thu nhập của mỗi gia đình phần lớn dựa vào cây thuốc lá. Có những nhà cả tuần không có chút mỡ để nấu nướng, chưa nói đến thịt cá hay những bữa ăn đủ đầy”.
Không ai còn nhớ thôn Trung Tiến được thành lập từ bao giờ, nhưng với anh Lý Văn An, hành trình gắn bó với vùng núi này bắt đầu từ năm 2014, khi anh dựng căn nhà đầu tiên giữa những quả đồi trập trùng. Hơn mười năm trôi qua, anh cùng bà con nơi đây vẫn sống trong bóng tối, lối sinh hoạt vẫn dựa vào ánh sáng tự nhiên hoặc bếp củi, và không ai biết khi nào mới nhìn thấy ánh sáng từ lưới điện quốc gia.
Máy móc đều phải chạy bằng xăng. Ảnh: Trung Hiếu.
Vào những mùa hè, dù thôn Trung Tiến nằm trên vùng cao, quanh năm được rừng xanh bao phủ, nhưng cái nóng oi bức vẫn trùm lên cả thôn. Ban ngày, nắng rọi xiên qua tán cây, hắt xuống mái tôn, khiến không gian bên trong như một chiếc lò nhỏ. Khi đêm xuống, không khí vẫn oi bức như đóng khung cả thôn trong lớp không gian dày đặc hơi nóng.
Những đêm oi bức, người già và trẻ nhỏ đành ra ngồi ngoài hè, mắt dõi theo từng cơn gió thoảng qua, mong một làn hơi mát hiếm hoi xoa dịu. Không gian núi rừng chỉ còn lại âm thanh rì rào của lá cây, tiếng quạt tay phạch phạch vang đều đặn và những câu thở dài thườn thượt, kéo dài trong đêm yên tĩnh. Ánh sáng lờ mờ từ những ngọn nến hay bếp củi hắt ra, tạo thành những bóng mờ nhấp nhô trên nền đất, nhắc nhở về sự vất vả mà người dân nơi đây phải chịu đựng để thích nghi với thiên nhiên và những tiện nghi còn xa vời.
Cuộc sống khó khăn buộc người dân phải tự thích nghi. Họ tận dụng sức nước từ khe suối gần nhà để lắp hệ thống điện mini. Nhưng điện cũng chỉ đủ “cho có” khi muốn sạc điện thoại phải tắt hết thiết bị khác và kể cả khi sạc, nguồn cũng chập chờn lúc có lúc không. Điện thoại thường xuyên sập nguồn, việc liên lạc trở nên khó khăn khiến bà con chưa bao giờ nghĩ đến việc đăng ký những gói mạng 3G, 4G xa xỉ.
Những phận người còn ‘neo’ lại núi rừng
Chia sẻ với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường, ông Nông Bình Cương, Bí thư Đảng ủy xã Ngân Sơn, cho biết, hiện những điểm chưa được hòa lưới điện quốc gia ở địa phương rơi vào khoảng 90 hộ. Không có điện, đời sống người dân chịu ảnh hưởng rất lớn. Trong sản xuất, việc tiếp cận các thiết bị cơ giới hóa gần như là không thể.
Hiện xã Ngân Sơn còn khoảng 90 hộ dân chưa có điện sinh hoạt. Ảnh: Trung Hiếu.
“Ví dụ như xát thóc, có điện thì đưa vào máy, chạy một cái là xong, đỡ vất vả biết bao. Chăn nuôi cũng vậy, có điện là dùng máy móc hỗ trợ tốt hơn. Còn chuyện học hành, tiếp cận công nghệ thông tin, xem tivi, dùng điện thoại… không có điện thì cực lắm,” ông Cương chia sẻ.
Ông Cương nhìn lại lịch sử, bên châu Âu điện đã xuất hiện từ thế kỷ 19, còn ở Hà Nội, những năm 1890 đã có điện lưới cho thành phố. Thế nhưng, sắp bước sang năm 2026 rồi, tại xã Ngân Sơn vẫn còn những hộ chưa được nối điện. Khoảng cách về tiện nghi, đời sống, khả năng tiếp cận thông tin và công nghệ tại nơi đây với những vùng khác trở nên rõ rệt, khiến người ta cảm nhận được sự khác biệt sâu sắc của nhịp sống hiện đại và nhịp sống còn “neo” lại giữa núi rừng.
Người dân tận dụng sức nước từ khe suối để lắp hệ thống điện mini. Ảnh: Trung Hiếu.
Bí thư Đảng ủy xã Ngân Sơn cho biết, nguyên nhân lớn nhất khiến điện chưa đến được nhiều hộ dân là do địa hình hiểm trở và dân cư thưa thớt, trong khi chi phí kéo đường dây rất cao, còn nguồn vốn cho chương trình điện nông thôn lại có hạn. Từ trung tâm xã đến những điểm này chừng 20 km, nhưng cũng có những nơi chỉ vài hộ sinh sống, cách trung tâm đến 70 km.
“Kéo điện cho vài hộ như vậy tốn tiền tỷ, khiến suất đầu tư trên mỗi hộ quá lớn. Trong khi nhiều việc khác của địa phương cũng đang rất cần thực hiện. Khó khăn lớn nhất của bà con đồng bào nơi đây chính là ở chỗ đó,” ông Cương bộc bạch.
Người dân Ngân Sơn đã quá quen với việc nghèo khó bủa vây. Ảnh: Trung Hiếu.
Ngoài vấn đề điện, xã Ngân Sơn vẫn đang phải đối mặt với nhiều thử thách khác. Điển hình như tỷ lệ hộ nghèo cao với 411 hộ nghèo và 244 hộ cận nghèo trong tổng số gần 1.200 hộ, gần một nửa dân cư sống trong cảnh khó khăn. Thu nhập thấp xuất phát từ điều kiện sản xuất hạn chế như đất đai ít ỏi, chủ yếu là đồi núi, xen kẽ rừng phòng hộ và rừng đặc dụng không thể khai thác. Đất xấu khiến hiệu quả canh tác không cao. Dân cư phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn giữ tập quán canh tác truyền thống.
Đến nay, giao thông của xã Ngân Sơn vẫn chưa thuận tiện dẫn đến việc giao thương bị hạn chế. Thời tiết nơi đây cũng khắc nghiệt khi mùa hè, ban ngày nhiệt độ có thể lên đến 34-38 độ nhưng khi ban đêm lại hạ xuống rõ rệt. Nhiệt độ mùa đông thường khoảng 15 độ nhưng khi có không khí lạnh có thể tụt xuống 4-5 độ. Cái lạnh buốt thấu xương có thể cảm nhận ngay cả khi ngồi trong nhà kín gió.
Một lần, nhà anh Lý Văn An có khách đến chơi. Giữa cái nóng oi ả, anh cắm chiếc quạt điện nhỏ để khách đỡ cảm thấy bức bối. Cánh quạt bắt đầu quay chậm rề rề, kêu lạch cạch như đang gắng sức, được vài vòng rồi dừng hẳn. Không khí trong nhà nhỏ lại chìm vào yên lặng…








![Chuyện giảm nghèo ở vùng biên giới: [Bài 2] Làng Nú có đơn xin thoát nghèo](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/lamtd/2025/11/09/5501-cham-chi-lao-dong-va-duoc-chinh-quyen-dia-phuong-giup-do-gia-dinh-ro-ma-hnghe-da-vuon-len-thoat-ngheo-154834_55.jpg)






![Chuyện giảm nghèo ở vùng biên giới: [Bài 1] Bà Rơ Chăm H’Miat đã biết ăn ngon](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/hainv72/2025/11/09/5025-3424-ba-ro-cham-hmiat-ben-vuon-ca-phe-1ha-cua-gia-dinh-152749_300.jpg)