| Hotline: 0983.970.780

Chuyện của những người vượt đồi giữ đàn vật nuôi ở Hiệp Lực

Chủ Nhật 09/11/2025 , 19:46 (GMT+7)

THÁI NGUYÊN Giữa những vùng đồi dốc hiểm trở, vẫn có một số hộ dân xã Hiệp Lực đang từng bước xây dựng mô hình chăn nuôi an toàn, bền vững.

Ở nơi mà chỉ một đợt dịch cũng có thể cuốn trôi toàn bộ vốn liếng, vài hộ dân ở xã Hiệp Lực (tỉnh Thái Nguyên) vẫn giữ được đàn vật nuôi nhờ coi phòng bệnh như công tác chính. Trên vùng đồi dốc quanh năm thiếu nước, họ học cách làm sạch chuồng, khử trùng từng ngày và không còn nuôi theo kiểu “hên xui” như trước.

Hiệp Lực vốn là xã miền núi nghèo, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn. Người dân sống chủ yếu bằng chăn nuôi và trồng trọt, song phần lớn quy mô nhỏ, manh mún. Toàn xã hiện có số lượng đàn vật nuôi “khiêm tốn” với hơn 4.000 con lợn, gần 1.200 con trâu bò và hơn 24.000 gia cầm. Những năm gần đây, dịch tả lợn châu Phi, rét đậm và biến động giá cám khiến không ít hộ bỏ chuồng. Giữa tình cảnh đó, chỉ vài gia đình vẫn duy trì được trang trại, coi việc “giữ đàn” là cách duy nhất để thoát nghèo bền vững.

Chuồng lợn của ông Vi Hoàng Sơn phun khử trùng hai ngày một lần, thức ăn được sát khuẩn trước khi cho vào, nguồn giống nhập đều có giấy kiểm dịch. Ảnh: Phương Linh.

Chuồng lợn của ông Vi Hoàng Sơn phun khử trùng hai ngày một lần, thức ăn được sát khuẩn trước khi cho vào, nguồn giống nhập đều có giấy kiểm dịch. Ảnh: Phương Linh.

Người nông dân tự xoay giữa vùng đồi dốc

Ông Vi Hoàng Sơn, thôn Bó Lếch, bắt đầu nuôi lợn từ năm 1996. Hơn ba mươi năm sau, khu chuồng rộng 400 m² của ông vẫn đều đàn, mỗi lứa nuôi khoảng một trăm con, đạt hơn một tạ rưỡi thì xuất bán. Hết lứa này, ông lại nhập giống mới để gối tiếp, giữ nhịp quanh năm. “Giá lợn hơi giờ chỉ 62.000 đồng một ký, thấp hơn nhiều so với trước dịch, nhưng nghỉ một vụ là đứt vốn nên phải bám”, ông nói.

Trụ vững được đến hôm nay, theo ông Sơn, không phải nhờ may mắn mà nhờ làm đúng kỹ thuật. Chuồng của ông phun khử trùng hai ngày một lần, thức ăn được sát khuẩn trước khi cho vào, nguồn giống nhập đều có giấy kiểm dịch. Ông còn tận dụng cây lá quanh nhà như sả, bồ kết, xuyến chi để đun nước xông khói, vừa đuổi ruồi muỗi, vừa khử khuẩn không khí. Mỗi tuần, đàn lợn lại được cho ăn lá thuốc có tính kháng sinh tự nhiên để phòng tiêu chảy và viêm phổi. “Trước cứ chủ quan, nghĩ bệnh là do vận, giờ thì biết rồi - chỉ cần lơ là vài hôm là mất cả đàn”, ông kể.

Theo ông, đầu tư phòng bệnh tuy tốn công nhưng đáng. Một lít dung dịch sát khuẩn giá khoảng 200.000 đồng, dùng được vài ngày, cộng thêm tiền điện cho máy phun và công vệ sinh mỗi tháng cũng chỉ vài triệu đồng. “Nếu tiết kiệm khoản đó, rủi ro mất đàn hàng trăm triệu còn khổ hơn”, ông nói, tay chỉ vào thùng hóa chất đặt ngay cửa chuồng.

Vợ chồng ông Sơn cũng mở rộng thêm tám hecta trồng cam, quýt, hồng, mắc cọp, vừa tận dụng chất thải chăn nuôi làm phân bón, vừa có thêm thu nhập. “Chăn nuôi với cây ăn quả hỗ trợ nhau, nhưng cái chính vẫn là giữ được đàn khỏe, không bệnh mới yên tâm làm”, ông nói.

Ông Long Đức Thiệp đang xây thêm chuồng trại để phục vụ mở rộng quy mô chăn nuôi, sản xuất. Ảnh: Linh Linh.

Ông Long Đức Thiệp đang xây thêm chuồng trại để phục vụ mở rộng quy mô chăn nuôi, sản xuất. Ảnh: Linh Linh.

Khi “phòng bệnh” trở thành vốn đầu tư chính

Cách đó vài cây số, ông Long Đức Thiệp ở thôn Liên Kết lại là kiểu nông dân khác - dám vay vốn để đầu tư bài bản. Năm 2019, khi dịch tả lợn châu Phi quét qua, ông mất trắng gần trăm con, thiệt hại hơn nửa tỷ đồng. “Tôi từng định bỏ nghề. Nhưng càng nghĩ càng tiếc, nên quyết làm lại từ đầu, lần này theo hướng chuồng kín”, ông nhớ lại.

Hai khu chuồng mới rộng gần 600 m² được chia tách rõ ràng, có bể sát trùng bánh xe, khu thay đồ, lối đi riêng. Gia đình chỉ có hai vợ chồng được phép ra vào, mỗi lần đều phải rửa tay, thay đồ, ghi sổ nhật ký. Khi nguy cơ cao, ông phun khử trùng ba lần một ngày, sáng, trưa và tối. “Giờ không thể làm kiểu cũ. Coi phòng bệnh như một phần của nghề, chứ không phải việc phụ”, ông nói.

Nhờ tuân thủ quy trình, đàn lợn của ông Thiệp ổn định suốt ba năm qua, không dịch tái phát. Mỗi năm ông nuôi gối hai lứa, tổng đàn thường xuyên 150 đến 200 con. Thương lái từ Bắc Giang, Thái Nguyên vào tận trại bắt hàng theo lô, mỗi lần 50-100 con, cân xong chở đi ngay trong ngày. Sau khi trừ chi phí, ông còn lãi vài trăm triệu, đủ để tái đầu tư và chi tiêu cho gia đình. “Nuôi lợn bây giờ không còn là chuyện ăn may. Phải có quy trình, có sổ sách, và phải sạch thì mới sống được”, ông nói.

Xã Hiệp Lực khuyến khích người dân áp dụng quy trình an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn. Ảnh: Linh Linh.

Xã Hiệp Lực khuyến khích người dân áp dụng quy trình an toàn sinh học trong chăn nuôi lợn. Ảnh: Linh Linh.

Từ sau đợt dịch 2019, chính quyền xã Hiệp Lực bắt đầu khuyến khích người dân áp dụng quy trình an toàn sinh học. Hàng tháng, thú y xã tổ chức phun tiêu độc định kỳ, hướng dẫn tách nước sạch và nước bẩn trong khu chuồng, rắc vôi ở lối đi, ủ chất thải trước khi xả ra môi trường. Sáu tháng đầu năm, xã không ghi nhận ổ dịch, tỷ lệ tiêm phòng lở mồm long móng và các loại dịch bệnh khác.

Các hộ nuôi đánh giá, chi phí cho phòng bệnh không lớn nhưng đòi hỏi sự kiên trì. Một chuồng nuôi 100 con cần đầu tư khoảng 15-20 triệu đồng để lắp hệ thống khử trùng, quạt thông gió, lưới chắn côn trùng và bể dậm chân. Mỗi tháng chi thêm vài triệu đồng cho hóa chất, điện nước và công lao động là có thể giữ đàn khỏe. “Phòng bệnh tốn chưa đến 5% tổng chi, nhưng nếu bỏ qua thì có thể mất sạch,” ông Thiệp tính.

Dù hiệu quả rõ ràng, việc nhân rộng vẫn chậm. Hộ nhỏ lẻ thiếu vốn, ngại vay thương mại vì lãi cao; trong khi các chương trình tín dụng ưu đãi cho chăn nuôi an toàn chưa phủ tới hết các thôn. Chính quyền xã đề xuất gói vay riêng cho hạ tầng phòng bệnh như chuồng kín, nước sạch, thiết bị khử trùng, cùng các khóa tập huấn kỹ thuật, để hộ nhỏ có thể chuyển sang mô hình vừa, chủ động hơn trong sản xuất.

Xem thêm
Phó Thủ tướng Mai Văn Chính dự lễ khởi công trường nội trú tại Đắk Lắk

Đắk Lắk đồng loạt khởi công 3 trường phổ thông nội trú tại các xã biên giới, mở ra cơ hội học tập chất lượng cho gần 3.300 học sinh dân tộc thiểu số.

Đau thương một khúc sông Cầu: [Bài 10] Những mảnh đời yếu thế

Khi anh Lê Công Cường - Trưởng ban Công tác Mặt trận của tổ dân phố Cậy dẫn vào nhà anh Lê Trung Hoạt - một hộ nghèo tôi cứ tưởng là mình đang lầm đường.