Con đường dẫn vào thôn Khuổi Ổn, xã Hiệp Lực, tỉnh Thái Nguyên, ngoằn ngoèo uốn lượn qua sườn núi. Vài năm nay, ô tô mới có thể vào, song những con dốc dựng đứng vẫn đủ thử thách khách đường xa. Trời khô, việc di chuyển thuận tiện hơn nhưng cứ khi mưa, đất đá đổ xuống lầy lội, hiểm trở, nhiều đoạn người dân chỉ biết dắt bộ.
Từ Khuổi Ổn ra khu gieo trồng tập trung đã xa vài cây số, còn muốn xuống trạm xá hay trung tâm xã thì lại thêm chục cây số đường núi quanh co. Đường sá cách trở khiến không chỉ việc phát triển sản xuất mà cả chăm sóc y tế, hành chính hằng ngày của bà con cũng trở nên gian nan. Bà Sầm Thị Biên, cán bộ Phòng Kinh tế xã Hiệp Lực, sởi lởi kể chuyện trên đường dẫn về nhà Bí thư Chi bộ thôn: “Cả thôn có 38 hộ, đều là hộ chuẩn nghèo nông thôn. 100% bà con là đồng bào người Dao, quanh năm bám nương rẫy mà cứ lay lắt, hiện cũng chưa có chính sách hỗ trợ nuôi con gì, trồng cây gì ở đây để thoát nghèo”.

Đường mòn quanh núi dẫn từ trung tâm xã Hiệp Lực đến thôn Khuổi Ổn. Ảnh: Linh Linh.
Nuôi bò lao đao tuột dốc, trồng cây hàng năm vẫn bấp bênh
Khuổi Ổn từng được coi là điểm sáng chăn nuôi khi cả thôn sở hữu đàn bò nhiều nhất xã Hiệp Lực nhờ các chương trình giảm nghèo hỗ trợ giống và kỹ thuật. Đàn bò một thời được xem là “của để dành”, là kỳ vọng giúp người dân đổi đời. Thế nhưng, khi thị trường biến động, giá bò tụt dốc không phanh, “giá con bò còn rẻ hơn con lợn”, khiến người nuôi vừa chán nản, vừa bất lực.
Bên bàn trà dựng tạm tại căn nhà đang xây dở, ông Lý Văn Bình, Bí thư Chi bộ thôn, ngậm ngùi: “Xã có hơn 1.000 con bò, thôn có khoảng 120 con. Nhưng thời gian gần đây, nuôi chỉ tốn công, bán chẳng đủ trang trải nên nhiều nhà bỏ giữa chừng lắm. Có nhà có 5-7 con nhưng sẵn sàng bán tháo, chỉ để lại 2-3 con để cầm cự, họ cũng không còn thiết tha gì nữa”.
Không chỉ chăn nuôi, canh tác nông nghiệp ở Khuổi Ổn cũng đầy thử thách. Ruộng lúa nằm rải rác ở khe rạch xa nhà, nhiều diện tích phụ thuộc hoàn toàn vào nước trời, hạn hán là “chết rũ” cả, khi thu hoạch được thì sản lượng nhỏ lẻ cũng chỉ đủ cho những bữa cơm gia đình. Đặc biệt, vụ đông–xuân gần như không trồng được gì ngoài thuốc lá. Cây ngô vốn quen thuộc cũng ngày càng kém hiệu quả, chỉ đủ tự cung tự cấp.

Nhiều hộ dân chỉ cầm cự vài con bò vì giá cả thị trường chưa bù được chi phí chăn nuôi. Ảnh: Linh Linh.
“Ở đây, thiên nhiên khắc nghiệt lắm. Năm thì hạn hán, năm thì sương muối, rồi mưa đá, lũ quét. Có vụ bà con đang hái thuốc lá thì mưa đá đổ xuống, chỉ sau một buổi chiều cả nương trắng xóa”, ông Bình lắc đầu ngao ngán.
Trong nỗ lực tìm hướng đi mới ở cây rừng, người Dao từng thử nghiệm với cây gỗ mỡ, bạch đàn, từ năm 2011–2012 theo dự án đóng cửa rừng tự nhiên, nhưng diện tích chỉ khoảng chục hecta, không đáng kể. Còn cây thông và keo thì hầu như bỏ dở vì thời tiết không phù hợp và đất nhanh thoái hóa.
Khó khăn bủa vây thôn xóm bé nhỏ với vỏn vẹn vài chục hộ dân, khiến cái nghèo như bưng như bít những hy vọng đổi đời dù là le lói. Không chỉ bất lợi từ điều kiện thiên nhiên, đất bạc màu, thiếu vốn, thiếu lao động trẻ có kinh nghiệm, ở góc độ chủ quan, người dân tộc ở thôn vẫn chưa được nâng cao nhận thức. “Cán bộ tập huấn cho rồi nhưng đâu lại vào đó. Giờ thì không còn tình trạng đói ăn nhưng vẫn là sống nay chưa biết ngày mai”, bà Sầm Thị Biên chia sẻ thẳng thắn.

Ông Lý Văn Bình, Bí thư Chi bộ thôn Khuổi Ổn. Ảnh: Linh Linh.
Tia hy vọng mỏng manh từ cây hồi
Trong bức tranh nông nghiệp u ám ấy, cây hồi được coi là “cây vàng”. Toàn xã Hiệp Lực hiện có hơn 130 ha, riêng thôn Khuổi Ổn khoảng 15 - 20 ha. Hồi được trồng nhiều trên các nương ngô bạc màu từ khoảng những năm 2020 trở lại đây và mới bắt đầu bói quả.
Cây hồi hợp khí hậu mát mẻ, ẩm cao, bén rễ ở sườn đồi dốc giáp rừng tự nhiên. Mùa đông, bà con vẫn đều đặn chăm sóc để cây không bị sương muối làm hỏng. Có năm được mùa, giá bán 70.000–80.000 đồng/kg khiến bà con hồ hởi. Song thực tế, phần lớn diện tích mới cho thu bói, chưa ổn định. Giá cả trao đi đổi lại vài ba vụ cũng chỉ là tín hiệu khích lệ, còn kỹ thuật trồng, phòng bệnh và định hướng thị trường vẫn chưa rõ ràng.
Người trồng hồi cũng thường xuyên đối mặt rủi ro. Vào tháng 3 - 4, khi trời âm u, bệnh thán thư xuất hiện, trong khi nhiều bà con được tập huấn sẽ có ý thức phun thuốc và bảo vệ cây thì vẫn còn một số bà con hạn chế về mặt kiến thức, nhận thức nên việc chăm sóc, bảo vệ còn khá lơ là và hời hợt. “Cây vẫn xanh, lá vẫn tốt nhưng hoa ra ít, gặp mưa đá, sương muối thì rụng sạch. Có vụ cả nương chẳng đậu nổi quả nào”, ông Lý Văn Bình chia sẻ.

Ruộng nương khe rạch phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước trời. Ảnh: Linh Linh.
Trong thôn, hộ trồng hồi của ông Lý Văn An được coi là điển hình. Trước kia gia đình ông trồng ngô để bán nhưng không ăn thua, ngô thu hoạch chẳng đủ bù chi phí. Thấy bà con vùng lân cận bắt đầu thử trồng hồi, ông cũng mạnh dạn chuyển đổi. Ai ngờ hợp đất, cây phát triển, vài hecta cho thu bói sớm và giá bán cũng khá. Nhờ kiên trì chăm sóc, diện tích hồi của gia đình ông cứ mở rộng thêm đến khoảng 4-5ha sau vài năm, hiện là hộ trồng có diện tích lớn nhất thôn, kinh tế cũng từ đó mà khá khẩm hơn các hộ khác.
Ông An tâm sự: “Thấy vài diện tích bói quả mà vui, mình muốn mở rộng thêm diện tích và học hỏi cách phòng bệnh, chăm cây để phát triển. Trồng tốt thì kinh tế gia đình mới vực dậy được”.
Cây hồi có thể mở ra hy vọng, nhưng ánh sáng ấy vẫn khá yếu ớt khi khó khăn về hạ tầng, kỹ thuật và thị trường vẫn còn đó và chưa được tháo gỡ triệt để.
Sản xuất cây chủ lực bấp bênh, cuộc sống người dân vì thế càng phụ thuộc vào các chương trình hỗ trợ. Thế nhưng, nhìn vào diện mạo làng xóm, ít ai nghĩ nơi đây toàn hộ nghèo. Đi trên những con đường nhỏ của thôn, dễ thấy nhiều nhà cấp 4, nhà tầng mới dựng, khang trang thay thế nhà gỗ, nhà sàn dột nát. Nhưng vẻ ngoài sáng sủa ấy chưa đủ che lấp nỗi lo thường nhật.

Những triền đồi xanh trồng hồi mang lại tia hy vọng mới cho thôn Khuổi Ổn. Ảnh: Linh Linh.
Ông Liêu Văn Bảy, Bí thư Đảng ủy xã Hiệp Lực, trăn trở: “Cả xã có 157 hộ được phê duyệt hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát, trong đó 27 hộ đã hoàn thành. Hàng trăm căn nhà xiêu vẹo đang dần thay bằng mái ngói, tường gạch. Nhưng nhà cửa khang trang không đồng nghĩa chất lượng cuộc sống nâng lên, người dân vẫn nghèo, thu nhập vẫn chưa đủ ổn định”.
Nguồn vốn Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2025 hơn 1,7 tỷ đồng nhưng các hạng mục hỗ trợ sản xuất còn dang dở, chưa kịp "chạm” đến bữa cơm hằng ngày của bà con.
Theo ông Bảy, xã Hiệp Lực không thiếu tiềm năng khi đất đai có thể trồng dưa lưới, đào, rau màu. Một số mô hình thử nghiệm đã cho tín hiệu tích cực. Song để nhân rộng không đơn giản, sau sáp nhập, từ thôn này đến thôn khác cũng cách nhau hàng chục cây số, các vùng tiểu khí hậu mỗi nơi một khác, vì vậy tìm kiếm một mô hình phù hợp với mỗi nơi lạ đòi hỏi một nỗ lực bám thôn, bám làng không ngừng nghỉ. Phần nữa vì người dân đã quá quen với cây thuốc lá vì “có tiền ngay”, trong khi hoa màu mới cần thời gian chờ đợi, chưa thấy, chưa tin.
Dẫu đi cả thôn, dễ nhận ra người trẻ không nhiều, phần lớn đã rời quê đi làm thuê xa, chỉ còn người già và phụ nữ bám nương giữ đất. Thoát nghèo ở Khuổi Ổn không thể chỉ trông chờ vào vài con bò hay mấy sào thuốc lá. Nếu có con đường thuận tiện hơn để ra chợ, có nguồn vốn để mạnh dạn đầu tư, có thị trường ổn định cho cây hồi nói riêng và cây rừng nói chung, thì giấc mơ đổi thay cuộc sống theo chiều tích cực hơn của người Dao nơi chân núi sẽ sớm thành hiện thực.