Ra đời năm 1994, khi Việt Nam đã vững an ninh lương thực và mở rộng cánh cửa thị trường, Viện Cây ăn quả miền Nam (SOFRI) được kỳ vọng như “bệ phóng” của ngành trái cây Việt Nam. Trong cuộc trò chuyện với Báo Nông nghiệp và Môi trường, PGS-TS Nguyễn Minh Châu, Viện trưởng đầu tiên của SOFRI kể lại hành trình “mở lối”: Những bước ngoặt khoa học công nghệ đã giúp trái cây Việt mở rộng thị phần xuất khẩu, và con đường phía trước cần đi.
Các đại biểu, lãnh đạo bộ Nông nghiệp và Môi trường tham quan khu vực trưng bày các giống trái cây ngon tại Viện Cây ăn quả miền Nam. Ảnh: Minh Sáng.
Đồng hành với nông dân, ‘đi tắt’ bằng hội thi giống
Đầu thập niên 1990, khi lúa gạo đã cơ bản ổn định và bắt đầu xuất khẩu, câu hỏi đặt ra: Làm gì để đánh thức tiềm năng cây trái đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và miền Nam? Gợi ý thành lập Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả phía Nam của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Bộ trưởng Nguyễn Công Tạn rất ủng hộ.
Ngày 15/4/1994, Viện Cây ăn quả miền Nam ra đời, trên tinh thần đồng hành với nông dân, với sản xuất và xuất khẩu. Nhìn lại, giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng vọt so với thời điểm đó; trong bức tranh ấy có dấu ấn của SOFRI, của nông dân và doanh nghiệp.
Là Viện trưởng đầu tiên của SOFRI, PGS-TS Nguyễn Minh Châu được xem là người đặt nền móng cho quá trình hiện đại hóa cây ăn trái ở phía Nam. Trước đó, ông có gần 20 năm làm việc tại Viện Lúa ĐBSCL.
Năm 1994, khi được điều động về làm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả Long Định (tiền thân của SOFRI), ông gần như phải bắt đầu ở một lĩnh vực hoàn toàn mới: thiếu nền tảng chuyên môn, bộ máy mỏng, cơ sở nghiên cứu cũ kỹ. Từ việc khởi xướng “hội thi cây giống tốt”, xây dựng chương trình cây sạch bệnh, thúc đẩy chuẩn hóa GAP đến thương mại hóa bản quyền giống, ông cùng đồng nghiệp đưa cây ăn trái Việt thoát khỏi sản xuất tự phát để tiếp cận thị trường quốc tế.
PGS-TS Nguyễn Minh Châu với những người nông dân. Ảnh: Minh Sáng.
Cuối năm 1994, chỉ vài tháng sau khi Trung tâm thành lập, ông chủ trì hội thảo quốc tế về bệnh vàng lá Greening trên cây có múi, dịch bệnh gây thiệt hại nặng ở ĐBSCL. Ngay sau hội thảo, cán bộ được cử sang Pháp học công nghệ sạch bệnh, đặt nền móng cho hệ thống cây giống sạch bệnh đầu tiên trong nước. Đây chính là bước chuyển cây có múi từ manh mún sang canh tác kiểm soát dịch hại theo chuẩn quốc tế. Đến năm 1997, Trung tâm được nâng cấp thành Viện SOFRI và từ đây hành trình “đưa khoa học vào vườn cây” của ông và đồng nghiệp bước sang nấc thang mới.
Theo PGS-TS Nguyễn Minh Châu, lai tạo một giống cây ăn trái bài bản mất 12–15 năm. Nếu chỉ trông chờ lai tạo, sản xuất sẽ phải đợi cả thập kỷ mới có giống tốt. Vì vậy, song song chương trình nghiên cứu dài hạn, SOFRI chọn hướng “đi tắt” nhưng hiệu quả, bằng việc tổ chức hội thi cây giống tốt để tìm ngay các cây đầu dòng xuất sắc đang có sẵn trong sản xuất.
Hội thi đầu tiên chọn xoài làm thí điểm, xác định xoài Cát Hòa Lộc (Cần Thơ) và xoài Cát Chu (Cao Lãnh) là hai cây đầu dòng tiêu biểu. Cách làm này nhanh chóng được nông dân và cơ quan quản lý đồng thuận, tạo tiếng vang toàn vùng. Chỉ sau vài năm, SOFRI mở rộng hội thi với sầu riêng, cam, quýt, bưởi, nhãn, chôm chôm…, hoàn thiện danh mục đầu dòng cho hầu hết cây trái chủ lực. Mỗi kỳ hội thi trở thành “ngày hội” của nông dân, nhà khoa học, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, cùng hội tụ để tuyển chọn giống tốt nhất đưa vào nhân rộng.
Với nông dân đoạt giải, đó không chỉ là vinh dự mà còn là bước ngoặt kinh tế, bởi cây được công nhận đầu dòng kéo theo nhu cầu giống tăng mạnh, tạo nguồn thu ổn định. Cùng lúc, SOFRI chủ động du nhập giống chất lượng cao từ nước ngoài, làm giàu nguồn vật liệu di truyền phục vụ cho lai tạo và nhân giống.
Khoa học phải ‘đứng trên đồng’
Viện đặt tại Tiền Giang, “vương quốc trái cây” miền Tây, là sự lựa chọn chiến lược. Khi ban đầu, SOFRI chỉ có vỏn vẹn 1 tiến sĩ, 2 thạc sĩ và vài kỹ sư trẻ, phòng thí nghiệm phải cải tạo từ phòng học cũ. Một Viện nghiên cứu giữa vườn cây, bắt đầu từ những chiếc bàn gỗ và những mô hình thực nghiệm đặt dưới ruộng. “Chúng tôi xác định không có thực tiễn thì không có khoa học và khoa học phải đứng trên đồng, chứ không phải trong phòng lạnh”, PGS.TS Nguyễn Minh Châu nhớ lại.
Các Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam qua các thời kỳ. Ảnh: Minh Sáng.
Một trong những dấu mốc khoa học công nghệ đáng nhớ nhất chính là lời giải cho bệnh vàng lá Greening, “cơn ác mộng” của cây có múi vùng ĐBSCL thời kỳ ấy. Tuy nhiên, nhờ hợp tác với chuyên gia CIRAD (Pháp), SOFRI xác định được tác nhân là vi khuẩn, lây truyền bởi rầy chổng cánh. Từ đó đưa ra được giải pháp cây sạch bệnh và quản lý truyền bệnh.
Không dừng lại ở nghiên cứu, SOFRI bắt đầu sản xuất cây giống sạch bệnh đầu tiên và mang đến tận tay cho nông dân. Đây là bước ngoặt lớn vì từ đó khái niệm “cây có múi sạch bệnh” mới xuất hiện ở Việt Nam, thay đổi tư duy canh tác từ trông chờ may rủi sang quản lý dịch bệnh theo chuẩn mực khoa học.
Nếu giải mã bệnh vàng lá là bước ngoặt khoa học, thì chứng nhận EurepGAP năm 2006 cũng là bước ngoặt hòa nhập thị trường bằng “tấm hộ chiếu” để giúp trái cây Việt Nam “cất cánh”. Với sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), nông trại thanh long Bình Thuận trở thành mô hình đầu tiên của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế.
Hai năm sau, xoài Cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi Mỹ Hòa, vú sữa Lò Rèn Vĩnh Kim… cũng lần lượt đạt GlobalGAP. Từ đó trái cây Việt không còn ‘mang đi thử’ mà được ‘mời vào’ Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, EU. Năm 2024 sầu riêng xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 3,2 tỷ USD, góp phần đưa kim ngạch rau quả lên 7,12 tỷ USD. Đến 10/2025, bưởi Việt Nam vào Úc, một thị trường nổi tiếng khắt khe về kiểm dịch thực vật. Không chỉ là xuất khẩu, đó cũng là lời khẳng định Việt Nam có thể đạt chuẩn cao nhất về an toàn, truy xuất, và xử lý sau thu hoạch.
Từ cây sạch bệnh đến quy trình GAP đầu tiên rồi đến hợp đồng bản quyền giống đầu tiên… hành trình của SOFRI dưới thời PGS-TS Nguyễn Minh Châu cho thấy: Muốn trái cây Việt Nam đi xa, khoa học phải đi trước và phải đi cùng nông dân.
Thương mại hóa giống: Cú hích tư duy
Nếu chuẩn hóa sản xuất giúp trái cây Việt bước vào thị trường thế giới, thì thương mại hóa bản quyền giống chính là dấu mốc đưa ngành cây ăn quả bước vào kỷ nguyên giá trị trí tuệ.
Giai đoạn 2013 - 2018, dưới sự hỗ trợ từ New Zealand và chương trình NZAID, SOFRI xây dựng cơ chế chuyển nhượng bản quyền giống theo chuẩn quốc tế. Năm 2013, lịch sử mở ra trang mới khi giống thanh long do SOFRI lai tạo được bán bản quyền với giá 2 tỷ đồng cho doanh nghiệp xuất khẩu, thương vụ đầu tiên của ngành cây ăn trái Việt Nam. “Từ đó, giống không chỉ là hạt mầm khoa học, mà là tài sản trí tuệ, phải được trả công xứng đáng”, PGS-TS Nguyễn Minh Châu chia sẻ.
Sau đó, một số giống thanh long khác tiếp tục được doanh nghiệp mua bản quyền, mở ra hướng đi mới: nhà khoa học tạo giống, doanh nghiệp thương mại hóa, thị trường trả giá trị cho đổi mới sáng tạo. Dù vậy, ông vẫn trăn trở khi nhiều cây ăn trái chủ lực đang cần giống nội địa thực sự vượt trội, chống chịu tốt và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Công nghệ chỉnh sửa gene, AI trong nông nghiệp, cảm biến, drone…cần phải được ứng dựng sâu, không chỉ trong báo cáo. Theo ông bài học lớn nhất từ thanh long đạt chuẩn EurepGAP năm 2006, khi nông dân nắm quy trình, kỹ sư sát đồng ruộng, chuẩn mực sẽ lan tỏa nhanh chóng. Đó là lý do ông luôn nhắc “Khoa học phải đứng trên đồng và phải nói ngôn ngữ của thị trường”.
Ông đề xuất trao quyền chủ động hơn cho nhà khoa học, đơn giản thủ tục tài chính, phát triển nông nghiệp hữu cơ - vi sinh và tôn trọng tri thức bản địa của nông dân để chuyển hóa thành quy trình chuẩn, chỉ như vậy trái cây Việt mới đi xa và đứng vững...
PGS-TS Nguyễn Minh Châu trao đổi với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường về câu chuyện về hành trình “mở lối”: những bước ngoặt khoa học công nghệ đã giúp trái cây Việt mở rộng thị phần xuất khẩu, và con đường phía trước cần đi. Ảnh: Viện CAQ miền Nam.
Trước lúc chia tay, ông chỉ cười hiền “Chỉ mong lớp trẻ làm tốt hơn chúng tôi. Và hãy nhớ, khoa học phải đứng trên đồng”. Chúng tôi cảm nhận được lời dặn nhẹ nhàng mà sâu lắng, như nếp nghĩ của cả đời ông gắn với vườn cây, với đất và với người nông dân Việt Nam...
Từ giám đốc “chân ướt chân ráo” ở Long Định đến Viện trưởng đầu tiên của SOFRI, hành trình của PGS-TS Nguyễn Minh Châu là dấu ấn của một đời mở đường cho cây ăn trái Việt. Có khi thấy ông trong hội đồng chấm trái ngon; khi khác, ông lại lội vườn xoài Đồng Tháp, đứng giữa rẫy sầu riêng Tiền Giang, hay cùng doanh nghiệp bàn chiến lược thị trường. Nghỉ hưu, ông vẫn lặng lẽ nhận điện thoại tư vấn, dõi theo từng bước của ngành, của nông dân.

![Đau thương một khúc sông Cầu: [Bài 10] Những mảnh đời yếu thế](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/256w/files/tuongdt/2025/10/24/4302-dsc_8506_1-153825_317.jpg)

![Thoát nghèo nhờ nông nghiệp xanh: [Bài 2] Chăn nuôi sạch, vững bền kinh tế](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/news/2025/11/05/dsc_8821jpg-nongnghiep-130452.jpg)






![Đau thương một khúc sông Cầu: [Bài 10] Những mảnh đời yếu thế](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/tuongdt/2025/10/24/4302-dsc_8506_1-153825_317.jpg)



![Thoát nghèo nhờ nông nghiệp xanh: [Bài 2] Chăn nuôi sạch, vững bền kinh tế](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/news/2025/11/05/dsc_8821jpg-nongnghiep-130452.jpg)

