
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan phát biểu tại Hội nghị Tổng kết Chương trình Xây dựng Nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững chiều 22/6. Ảnh: Tùng Đinh.
Tại Hội nghị Tổng kết Chương trình Xây dựng Nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững chiều 22/6, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan chia sẻ về trách nhiệm và bổn phận, về tình cảm gắn kết, chan hoà với nông thôn, nông dân.
Nông thôn là di sản. Từ di sản truyền thống được bảo tồn, lưu giữ trong lời kể, trong tư liệu lịch sử, đến di sản năng động, giàu sức sống của cư dân nông thôn, đang được phát huy, lan tỏa giá trị mỗi ngày. Chúng ta đã thấy giá trị, bản sắc nông thôn tự tin hiện diện trong các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật của giới trẻ ngày nay, như cách mà bài hát “Bắc Bling” hay “Rock Hạt gạo” được đón nhận nồng nhiệt thời gian gần đây, với ca từ giàu cảm xúc:
“Tình quê son sắt keo sơn. Hương đồng gió nội cây rơm đợi chờ”
“Gạo là tên của tui, mời anh chị em ngồi chơi cùng nhau nghe rock về hạt gạo”.
Từ lúc triển khai đến nay, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới đã đạt kết quả “to lớn, toàn diện và mang tính lịch sử”. Giờ đây, câu hỏi không còn là “làm gì cho nông thôn” mà là “làm sao để mỗi người dân nông thôn trở thành chủ thể của sự thay đổi?”, “làm sao để nông thôn mới không chỉ gắn bó với người làng hôm nay, mà còn là miền quê đáng sống, luôn muốn tìm về với những người trẻ lớn lên, học tập và làm việc giữa thành thị mai sau?”.
Chúng ta đang bước vào một bối cảnh hoàn toàn khác. Sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính là một quyết định chiến lược nhằm tinh gọn bộ máy, tăng hiệu quả điều hành. Định hướng phân cấp, phân quyền sâu hơn đến cấp cơ sở - cấp thực thi, vận hành trực tiếp là cơ hội để địa phương phát huy tính năng động, sáng tạo. Sự đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là điều kiện để đưa những tiến bộ về tận thôn xóm, bản làng.
Xây dựng nông thôn mới với không gian cấp tỉnh, cấp xã rộng hơn, nên phải có cách tiếp cận khác hơn. Cán bộ cấp cơ sở không chỉ dựa vào các tiêu chí cứng, mà cần có sự sáng tạo dựa trên đặc điểm của mỗi địa phương. Không gian phát triển cấp xã không chỉ là không gian sản xuất, mà còn là không gian tích hợp văn hoá, xã hội, cộng đồng, trong đó năng lực, tri thức của cư dân nông thôn sẽ là yếu tố quyết định.
Quan trọng nhất, niềm tin, sự chủ động, sự sẵn lòng thích ứng với thay đổi của người dân đã trở thành nguồn lực mạnh mẽ nhất. Xây dựng Nông thôn mới không còn là “chương trình của Nhà nước”, mà đã thực sự là “chương trình của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”.
Giai đoạn mới cần tư duy mới, định hướng tiếp cận mới. Tôi xin phép được gợi mở một số hướng tiếp cận.
Thứ nhất, cộng hưởng chính sách - hợp nhất chương trình.
Chúng ta thực hiện cùng lúc chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng Nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững. Hai chương trình này có nhiều điểm giao thoa, mục tiêu tương đồng. Do vậy, tôi đề xuất hướng tới hợp nhất, tích hợp hai chương trình, để giảm phân mảnh, tăng hiệu quả, sử dụng linh hoạt nguồn lực, cùng hướng đến mục tiêu: không chỉ cải thiện thu nhập mà còn nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xây dựng nông thôn không chỉ giàu có mà còn hạnh phúc.
Giảm nghèo bền vững không chỉ dừng lại ở việc “trao cần câu thay vì trao con cá”, mà còn là hướng dẫn “cách thức câu cá”, kiên trì đồng hành để khơi gợi “tinh thần câu cá” - thái độ sống, làm việc đúng đắn, tự lực, tự chủ, không bỏ cuộc. Cách tiếp cận mới đặt người khó khăn vào vị trí chủ thể, khơi dậy động lực của chính bản thân, thay vì chỉ trông chờ vào trợ giúp bên ngoài.
Thứ hai, từ tiêu chí cứng sang năng lực mềm.
Giai đoạn đầu, chúng ta dành nguồn lực cho hạ tầng nông thôn, thì giai đoạn tới, cần tập trung cho “hạ tầng con người”.
Nâng cao năng lực cộng đồng: để mỗi thôn, mỗi xã có thể tự mình có những sáng kiến, sáng tạo, chủ động tham gia, góp phần quản lý dự án, giám sát công trình, tự chủ trong hành động hàng ngày.
Tri thức hoá nông dân: cư dân nông thôn không chỉ học kỹ thuật sản xuất, mà học quản trị, tham gia các lớp bình dân học vụ số, học truyền thông, học liên kết, học cách thương mại hóa, học cách kể chuyện sản phẩm mình làm ra.
Thúc đẩy đổi mới sáng tạo từ dưới lên: nơi mỗi mô hình kinh tế tập thể, làng nghề, tổ hợp tác, hội quán nông dân… là một “hạt giống cải cách và đổi mới”.
Thứ ba, kinh tế nông thôn không chỉ là nông nghiệp.
Khi sản xuất nông nghiệp ngày càng chịu nhiều rủi ro về thời tiết, giá cả, dịch bệnh, thì việc đa dạng hoá sinh kế là một yêu cầu sống còn. Kinh tế nông thôn cần phát triển cả dịch vụ - du lịch - làng nghề - sản phẩm OCOP - logistics. Hộ gia đình không chỉ là nông dân trồng trọt, chăn nuôi, mà là nhà sản xuất - nhà kinh doanh - nhà quảng bá. Tổ chức kinh tế cộng đồng như hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương là điểm tựa để gia tăng giá trị, hài hòa lợi ích, san sẻ rủi ro.
Thứ tư, kết nối viện trường - đưa khoa học, công nghệ, tri thức về làng.
Lợi thế nông nghiệp của đất nước, khó có thể được phát huy hết, nếu không thể kết nối trí tuệ của các nhà khoa học từ các viện trường đến với ruộng đồng. Cần một hệ thống khuyến nông cộng đồng, nơi người dân nông thôn không chỉ học kỹ thuật, mà được trao đổi trực tiếp với nhà khoa học, chuyên gia, sinh viên tình nguyện. Mỗi làng quê đều có thể trở thành “phòng thí nghiệm” sống động, để thử nghiệm những giải pháp nông nghiệp tuần hoàn, phục hồi môi trường, tạo thêm nhiều sinh cảnh dọc theo những con đường, dòng sông, khu trung tâm. Mỗi hộ gia đinhg biết tiết kiệm nước, sử dụng năng lượng tái tạo, đổi mới giống cây, giống con, phát huy giá trị thực vật bản địa, kết hợp với những nghề mới như trồng dược liệu, cây gia vị…
Thứ năm, thay đổi tư duy lập quy hoạch nông thôn.
Sau khi hợp nhất không gian hành chính cấp xã, chắc chắn phải điều chỉnh, lập quy hoạch mới. Quy hoạch xã không chỉ là quy hoạch sản xuất nông nghiệp, trồng cây gì, nuôi con gì, là quy hoạch kết cấu hạ tầng. Quy hoạch, quan trọng hơn là định hình khu vực kinh tế nông thôn. Trong không gian đó, làng nghề truyền thống được phục hồi, tạo ra các ngành nghề mới cho nông thôn, khu chế biến nông sản, phát triển du lịch. Quy hoạch nông thôn cần được xem là bản “marketing” để giới thiệu, thu hút đầu tư bên ngoài, khuyến khích người ở làng tham gia phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác xã, xúc tiến đầu tư, khởi nghiệp nông nghiệp với các mô hình nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp số.
Thứ sáu, từ làng quê nông thôn mới đến làng thông minh, làng hạnh phúc.
Tôi mong chương trình Nông thôn mới giai đoạn tới sẽ không chỉ dừng ở đạt “chuẩn”, mà bước tới những mô hình mới. Làng thông minh: có kết nối internet, có dữ liệu sản xuất, có mô hình sản xuất thông minh. Làng hạnh phúc: nơi không chỉ có thu nhập, mà có niềm vui, sự sẻ chia, văn hoá cộng đồng được bảo tồn, người già được quan tâm, trẻ em được học hành, bình đẳng giới bước bào từng ngôi nhà, cộng đồng. Bởi mục tiêu cuối cùng của phát triển, không phải là những con số, mà là nâng cao chất lượng sống cho từng người dân.
Hành trình nông thôn mới, giảm nghèo bền vững vẫn còn nhiều việc phải làm. Tôi tin rằng, nếu chúng ta tiếp tục đồng lòng, tiếp tục lắng nghe tiếng nói của cộng đồng, tiếp tục tạo không gian cho sáng kiến địa phương, thì nông thôn Việt Nam sẽ không chỉ mới về hình thức, mà mới cả trong tư duy, trong cách sống, cách làm ăn, cách gắn kết. “Người nghèo nghèo cái túi, người giàu giàu cái đầu”, là tiêu đề tựa sách gợi lên nhiều suy ngẫm về tinh thần học tập suốt đời, mô hình sách hoá nông thôn.
Với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” như thông điệp Thủ tướng Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh, sự kiên trì đồng hành từ mỗi chúng ta, thấu hiểu từng hoàn cảnh khó khăn để chọn lọc, hỗ trợ sinh kế phù hợp, khuyến khích tinh thần vượt khó, vươn lên, sẽ góp phần giúp chất lượng sống của những người có điều kiện khó khăn ngày càng được cải thiện.
Xin gửi đến Quý vị Lãnh đạo và Đại biểu tham dự Hội nghị lời văn mộc mạc nhắc nhở mỗi người chúng ta về việc mình cần làm, về trách nhiệm và bổn phận, về tình cảm gắn kết, chan hoà với nông thôn, nông dân:
“Tôi sinh ra ở nông thôn.
Ba Mẹ tôi là nông dân”.