Người Mông đổi đời nhờ tre măng Bát Độ
Trưa một ngày trung tuần tháng 10, nắng thu vàng óng trải xuống những cánh rừng, chúng tôi tìm về thôn Đồng Ruộng, xã Quy Mông, tỉnh Lào Cai (thuộc xã Kiên Thành, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái cũ). Con đường bê tông từ khu trung tâm vào đến thôn dài chừng 8 cây số, uốn lượn mềm mại bên dòng suối Ngòi Gùa và những sườn núi chập chùng. Hai bên đường trải dài màu xanh ngút ngàn của tre Bát Độ và quế.

Con đường đến thôn Đồng Ruộng rợp bóng tre Bát Độ và quế. Ảnh: Thanh Tiến.
Khung cảnh khu trung tâm thôn không giống với hình dung thường thấy về một bản làng người Mông. Thay vì cheo leo trên những sườn núi cao, nơi đây, hơn 50 hộ dân quây quần, sống tập trung dưới thung lũng bằng phẳng, trù phú. Những ngôi nhà xây kiên cố san sát, nhiều ngôi nhà hai tầng khang trang, mang đến cảm giác về một "góc phố nhỏ" mọc lên giữa bốn bề núi rừng hùng vĩ.
Trưởng thôn Giàng A Sáu tiếp chúng tôi bên mái hiên ngôi nhà 2 tầng còn thơm mùi vôi vữa. Ông Sáu đon đả pha trà mời khách, bắt đầu câu chuyện về sự đổi thay kỳ diệu của vùng đất này. Chỉ tay một vòng ra những cánh rừng tre xanh thẳm, ông hồ hởi nói: "Nhờ cây ông Lũy mà người Mông ở đây đổi đời đấy".
Như đọc được băn khoăn của chúng tôi về cái tên "cây ông Lũy", ông Sáu thủng thẳng giải thích "ông Lũy là cán bộ dám nhận cây măng Bát Độ về đổi đời cho bản Mông này nên chúng tôi gọi cây ấy là cây ông Lũy", rồi ông lại tiếp mạch khoe.
Theo lời ông Sáu kể, hiện thôn Đồng Ruộng có 55 hộ với 276 nhân khẩu. Gần 100% là đồng bào Mông. Đồng Ruộng là thôn "sinh sau đẻ muộn", mãi đến năm 1987, một số hộ đồng bào Mông ở xã Suối Giàng (huyện Văn Chấn) di cư về xã Mỏ Vàng (huyện Văn Yên) rồi tiếp tục về Đồng Ruộng định cư. Những ngày đầu, chỉ có 3 hộ dân là hộ ông Giàng A Nhà, Giàng A Vư, Giàng A Chư với 19 con người về đây ở. Đến năm 1994, vùng đất này mới chính thức được khai sinh với hơn 20 nóc nhà, lấy tên gọi là thôn Đồng Ruộng (bởi khu vực này bằng phẳng, bà con gieo cấy lúa nước nhiều).
“Những ngày đầu khai hoang, lập bản là chuỗi ngày vật lộn với cái đói, cái nghèo. Những năm 1991, 1992 cực đói. Người dân phải đi đào củ nâu, củ rừng về nấu ăn qua ngày. Cái củ nâu ấy, con chuột nó còn không ăn, mà người mình phải lấy về ăn thì biết là khó khăn đến mức nào rồi đấy.
Ngày ấy, bà con phát rừng, đốt nương trồng lúa nhưng đất màu mỡ quá, lúa tốt bời bời mà không cho hạt. Cấy lúa nước cũng không được ăn vì nước lạnh, ớm bóng nên cũng không được thu hoạch. Cuộc sống gần như chỉ trông vào săn bắn, hái lượm từ rừng và nuôi thêm con gà, con lợn, trồng vài cây quế. Cái đói nghèo đeo bám dai dẳng, tưởng chừng không có lối ra”, giọng ông Sáu chùng xuống.
Bước ngoặt vào năm 2004, khi chủ trương đưa cây tre măng Bát Độ vào trồng thử nghiệm. Được cán bộ Hoàng Văn Lũy khi ấy động viên, Trưởng thôn Giàng A Sáu đã tiên phong mạnh dạn nhận về trồng đầu tiên.

Trưởng thôn Giàng A Sáu - người tiên phong trồng tre Bát Độ. Ảnh: Thanh Tiến.
"Tôi thấy đất mình còn nhiều. Mình là trưởng thôn, mình phải đi đầu để bà con làm theo. Thế là tôi mạnh dạn nhận trồng 1,5ha. Bà con lúc ấy chỉ tin cây quế thôi. Họ bảo: 'Ôi dào, tre Bát Độ trồng có măng không ai mua thì trồng làm gì'. Nhưng tôi nghĩ, Nhà nước đầu tư giống, hỗ trợ công trồng và cho vay vốn thì mình cứ làm. Mình không đi đầu thì ai đi?".
Đất không phụ lòng người, chỉ 3 năm sau, lứa măng đầu tiên cho thu hoạch. Thấy được hiệu quả kinh tế rõ rệt, những hộ dân còn e dè trước đó bắt đầu làm theo. Lúc đầu, bà con được dự án hỗ trợ vay vốn ngân hàng để mua củ giống. Về sau, khi các vườn tre đã lớn, người dân tự nhân giống, đào củ tre của nhà mình mang đi trồng, diện tích cứ thế lan rộng ra.
"Cây tre này nó hợp đất, hợp khí hậu ở đây lạ lùng. Càng mưa măng càng to, càng tốt. Đặc biệt, măng ở Đồng Ruộng không phải bón phân mà vẫn to nhất, mềm nhất, ngon nhất vùng này. Đến nay, 100% hộ trong thôn đều trồng tre Bát Độ. Hộ nhiều thì dăm bảy ha, hộ ít cũng có 1-2ha", ông Sáu phấn khởi..
Mùa thu hoạch măng Bát Độ kéo dài từ giữa tháng 6 đến trung tuần tháng 10. Trong khoảng 4 tháng này, Đồng Ruộng nhộn nhịp và huyên náo hơn thường lệ. Các gia đình tấp nập lên đồi thu hoạch măng từ sáng sớm, đến trưa thương lái đánh ô tô đến tận chân đồi cân măng.
Ông Sáu nhẩm tính: "Tổng diện tích tre Bát Độ của thôn giờ phải hơn 150ha. Có nhiều diện tích bà con trồng ngoài vùng quy hoạch nên không được cấp sổ, không thống kê hết được. Chỉ tính riêng tiền thu từ măng, mỗi năm cả thôn thu về hơn 3 tỷ đồng".

Những ngôi nhà của người Mông ở Đồng Ruộng. Ảnh: Thanh Tiến.
"Nhà tôi giờ có gần chục ha, vào vụ, 4 người trong nhà đi bẻ măng. Cứ 6 giờ sáng lên đồi, làm miệt mài đến 2 giờ chiều mới về. Ngày cao điểm, 4 người bẻ được gần 2 tấn măng. Bẻ đến đâu, bóc ngay tại đồi, sau đó vác ra đường là có xe chờ sẵn. Giá măng hiện tại là 5.500 đồng/kg, nên hôm đó thu được khoảng 10 triệu đồng. Tất nhiên, không phải ngày nào cũng được thế, có ngày xa đường, vận chuyển vất vả thì được ít hơn. Trung bình vài triệu trong 1 ngày thu hoạch là chuyện thường.
Hiện tại ở đất Đồng Ruộng này, những hộ có xe ô tô đi, có nhà tầng, nhà xây khang trang... 100% đều là nhờ cây Bát Độ. Từ một thôn đói khổ, phải ăn củ nâu, giờ trong thôn chỉ còn duy nhất 1 hộ nghèo và 2 hộ cận nghèo. Hộ nghèo này là do lười lao động, chứ đất thì không thiếu. Ở đây cứ chịu khó là có ăn, là khá", ông Sáu nói thẳng.
Năm 2024, Đồng Ruộng được công nhận thôn nông thôn mới kiểu mẫu. Sau đó, được Nhà nước hỗ trợ 150 triệu đồng để xây dựng công trình phúc lợi. Bà con họp, quyết định làm mái vòm ở sân nhà văn hóa thôn để làm nơi hội họp, vui chơi, thể thao.
Để làm sân thể thao này, chính gia đình Trưởng thôn Giàng A Sáu đã tự nguyện hiến một mảnh đất lớn, bằng phẳng ngay trung tâm. "Mình làm trưởng thôn, mình phải gương mẫu. Hiến đất làm nơi vui chơi chung cho cả bản, cho con cháu sau này. Người ta sẽ nhớ đến mình", ông Sáu tâm sự.

Mảnh đất ông Sáu hiến để làm sân thể thao thôn. Ảnh: Thanh Tiến.
Quan trọng hơn, dù ở nhà tầng, đi ô tô, đời sống hiện đại, nhưng những nét văn hóa cốt lõi của dân tộc Mông như: tiếng nói, trang phục trong ngày lễ, Tết không bỏ được. Những cái lạc hậu như tảo hôn, đẻ nhiều con giờ không còn nữa. Ngay cả việc ma chay, cưới xin cũng thay đổi văn minh hơn.
Ông Sáu dẫn chứng: "Ngày xưa đám cưới phải kéo dài 2 ngày 1 đêm, mệt mỏi lắm. Giờ chỉ làm lễ 1 - 2 tiếng đồng hồ rồi đón dâu về và liên hoan 1 bữa. Đám ma cũng thế, trước có tục “ma khô” (giống như đám giỗ hết của người Kinh), sau khi chôn cất 2 năm, gia đình phải mổ trâu, mổ bò cúng lại, ăn uống dầm dề 3 ngày 3 đêm, rất tốn kém. Bây giờ, bà con thống nhất, vẫn mổ bò, mổ trâu làm lễ nhưng chỉ ăn một bữa trưa. Ăn xong là ai về nhà nấy, lại tiếp tục lên nương, lên đồi sản xuất".
Sự trù phú nhờ cây tre Bát Độ đã "giữ chân" người Mông ở lại thung lũng. Tình trạng di cư tự do không còn. "Giờ nếp sống văn minh, đường sá thuận lợi, buôn bán dễ dàng, thu nhập tại chỗ còn cao hơn đi làm thuê xa. Bà con không bỏ bản, bỏ làng đi đâu nữa", vị trưởng thôn cười tươi nói.
Chuyện nghèo của 2 thập kỷ trước
Câu chuyện đổi đời ở thôn Đồng Ruộng là điểm sáng rõ nét về sự khá giả của người Mông nhờ cây tre Bát Độ. Để miêu tả toàn cảnh bức tranh rực rỡ của thủ phủ măng Kiên Thành (nay thuộc xã Quy Mông), chúng tôi tìm đến vị lãnh đạo xã đã hơn 2 thập kỷ lăn lộn với cây măng. Ông là Hoàng Văn Lũy, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch UBND xã Kiên Thành - người đã 32 năm gắn bó cuộc đời mình ở mảnh đất này.
Ông Lũy vừa nghỉ hưu trong đợt sáp nhập xã vừa rồi. Sinh ra và lớn lên ở Kiên Thành nên ông là pho sử sống về cuộc thay da đổi thịt ở nơi đây. Bên ngôi nhà sàn cổ theo truyền thống của người Tày bản địa, ông Lũy chậm rãi kể lại những ký ức đẫm mồ hôi, nước mắt và cả những biện pháp quyết liệt để làm thay đổi vận mệnh của hàng ngàn người Tày, người Dao, người Mông nơi đây.

Ông là Hoàng Văn Lũy, nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Chủ tịch UBND xã Kiên Thành. Ảnh: Thanh Tiến.
Giọng ông chậm rãi: "Các anh không thể hình dung Kiên Thành ngày xưa khổ thế nào. Những năm 90 và đầu 2000 chỉ toàn một màu xám xịt. Đất Kiên Thành mênh mông, rừng thì nhiều, nhưng người dân sống chủ yếu bằng cách “ăn” của rừng. Chính tôi ngày xưa cũng là người đi khai thác gỗ theo hợp đồng với thợ cưa xẻ dưới xuôi lên. Người dân ở đây khi đó, người đi khai thác gỗ, người đi thu hái lâm sản phụ như song, mây. Cái gì bán ra tiền là người ta làm. Sản xuất nông nghiệp gần như không có gì. Cây quế, vốn là đặc sản Yên Bái, lúc đó ở Kiên Thành cũng vô cùng manh mún, không thành hàng hóa được. Cái thời bao cấp còn dây dưa, người này trồng thì người kia đi bóc trộm. An ninh trật tự rất phức tạp".
Nông nghiệp chỉ có trồng lúa, nhưng cũng chẳng đủ ăn, không có gì để xóa đói giảm nghèo. Hàng loạt diện tích rừng bị người dân phá đi. Họ phá rừng xong, trồng lúa nương, trồng sắn, trồng khoai. Sau vài vụ đất bạc màu, người ta lại bỏ hoang, để cây dại mọc. Cuộc sống cứ luẩn quẩn như vậy. Đến năm 2000, tỷ lệ hộ nghèo của Kiên Thành vẫn còn 53%. Trong số đó, khoảng một nửa là hộ đói, thiếu gạo ăn 3 - 4 tháng/năm. Rừng cứ thế co hẹp lại, còn cái đói vẫn đeo bám.
Chuyện "cây ông Lũy"
“Năm 2003, dự án tre Bát Độ được tỉnh đưa về. Lúc đó tôi làm Chủ tịch xã năm thứ 3. Thú thật, khi dự án về, tôi chưa dám nhận đâu, trăn trở lắm. Đưa một cây trồng hoàn toàn mới về một vùng đất mà thói quen canh tác của người dân còn lạc hậu, manh mún là một sự mạo hiểm. Vì vậy, tôi quyết định phải “mắt thấy tai nghe”, tôi và một số anh em trong xã tham gia cùng đoàn công tác của huyện, của tỉnh tham quan đủ nơi từ vùng hồ Thác Bà, đến tỉnh Lạng Sơn và đi tận Trung Quốc.
"Tôi không tìm hiểu số liệu thổ nhưỡng, khí hậu của họ. Tôi nhìn thảm thực vật, thấy có cây cỏ rác, cây guột, cây muối... y hệt như ở mình. Tự nhủ, khả năng đất mình trồng được”.
Trở về từ chuyến đi, ông Lũy hạ quyết tâm làm. Việc đầu tiên là đưa ra Thường vụ Đảng ủy xã và bắt tay vào lập kế hoạch 3 năm (2003-2006) trồng 200ha tre Bát Độ.

Tre măng Bát Độ hợp đất Kiên Thành. Ảnh: Thanh Tiến.
Nhưng đất ở đâu, bởi người dân lúc đó 'tham đất' lắm. Họ giữ đất để trồng lúa nương, trồng keo. Vận động họ chuyển đổi rất khó.
Sau đó, rà soát quỹ đất tại địa phương nhận thấy đất lâm trường ở khu vực Khe Tối bỏ hoang rất nhiều. Xã đã nhờ sự tác động của lãnh đạo tỉnh và huyện để mượn 260ha đất. “Chúng tôi quy hoạch toàn bộ khu này là vùng trồng tre Bát Độ. Ai làm thì phải trồng tre.
Sau đó, được sự hỗ trợ tích cực của huyện, đặc biệt là lực lượng khuyến nông đã trèo đèo, lội suối xuống “ăn cùng, ở cùng, làm cùng” nhân dân. Có lẽ những cán bộ khuyến nông đó còn thuộc từng mảnh đồi ở Kiên Thành hơn cả người địa phương. Mấy tháng trời mưa gió dầm dề sau Tết, họ lại cùng người dân vác củ giống, đào hố trồng tre. Năm đầu tiên (2003) trồng 60ha, đến năm 2006, toàn xã trồng được 204ha, vượt kế hoạch.
Giai đoạn 2004 - 2005 là giai đoạn khủng hoảng niềm tin. Tre trồng chưa thấy lên, nhiều củ giống thì chết thối, mà ngân hàng thì bắt đầu đòi nợ (3 tháng trả lãi một lần).
Ông Lũy cười: "dân bắt đầu hoang mang, rồi chế giễu. Người Mông họ nói ngọng, họ không gọi là tre Bát Độ, họ gọi là tre Bát 'đổ' (làm cho khó khăn). Họ đi rêu rao: "Thằng Lũy lấy tre Bát đổ về bắt dân làm".
Đỉnh điểm của khủng hoảng là khi măng bắt đầu cho thu hoạch (2006-2007), hơn 200ha măng mọc lên, nhưng không có ai mua.
“Tôi thì như ngồi trên đống lửa. Dân họ bắt đền, họ bảo “Kỳ này không bán được là cứ bóc măng đem đổ đầy sân nhà ông Lũy Chủ tịch, ông Quý Bí thư".
Sau đó, nhờ sự vào cuộc quyết liệt của tỉnh và các vị lãnh đạo huyện Trấn Yên thời đó, xã đã ký bao tiêu sản phẩm với Công ty TNHH Vạn Đạt. Sản phẩm măng của bà con có đến đâu được thu mua hết đến đó, họ mới yên tâm phát triển mở rộng quy mô sản xuất.

Măng tre Bát Độ đã trở thành hàng hóa xuất khẩu. Ảnh: Thanh Tiến.
Những sóng gió, trăn trở của người "thuyền trưởng" Hoàng Văn Lũy và đội ngũ cán bộ “đồng lòng, làm thật" của Kiên Thành cuối cùng đã được đền đáp. Thị trường tự điều tiết, tăng giá trị, măng Bát Độ trở thành "vàng trắng" của hàng trăm hộ dân.
"Cây tre Bát Độ hơn hẳn các loại cây trồng khác như keo, bồ đề, sắn… Nếu thâm canh, sẽ cho thu nhập cao nhất bởi thu đủ thứ như: măng, cành, củ giống, lá. Loài cây này cũng cực kỳ phù hợp với tập quán canh tác của bà con. Nếu chăm bón thì cho năng suất cao hơn. Anh không chăm, vẫn cho măng nhưng ít hơn. Cứ đến mùa là thu hoạch. Trên bản Mông họ không cần bón phân gì mà măng vẫn lên tua tủa".
Từ chỗ đói ăn, thu nhập bình quân đầu người của Kiên Thành (cũ) năm 2024 đã đạt trên 60 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 2%. Hiện nay, vùng Kiên Thành có hơn 2.000ha tre Bát Độ. Ở đây giờ hết đất trồng tre, người dân bắt đầu cải tạo, luân canh cả nương quế già cỗi để trồng tre. Tổng thu từ các sản phẩm Bát Độ của xã năm 2024 ước đạt hơn 150 tỷ đồng.
Nhưng di sản lớn nhất mà ông Lũy và thế hệ cán bộ xã để lại không chỉ là kinh tế. Đó là sự thay đổi trong tư duy người dân, từ "khai thác", sản xuất manh mún sang sản xuất hàng hóa.

Đời sống vật chất, tinh thần của người dân vùng đất Kiên Thành ngày càng nâng cao. Ảnh: Thanh Tiến.
"Với những quyết sách đúng, giúp bà con no ấm sẽ lấy được niềm tin của người dân. Khi họ có niềm tin thì vận động việc gì cũng dễ. Như dự án tuyến đường 100 tỷ đồng từ Quy Mông đi Kiên Thành vừa triển khai. Tỉnh muốn nâng cấp đường nhưng không hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Huyện hỏi xã có cam kết tự giải phóng mặt bằng được không? Tôi đảm bảo: riêng địa phận Kiên Thành thì cam kết.
Kết quả, toàn tuyến đường đi qua, người dân tự nguyện hiến đất. Có hộ, thu hoạch luôn 2,4ha quế, xong sẵn sàng hiến đất cho người ta đào đường. Anh nghĩ xem, nếu dân còn đói, họ có cho không”, ông Lũy nói.
Nhìn những ngôi nhà tầng san sát, những con đường bê tông chạy thẳng lên nương tre, những nhà văn hóa thôn tối tối rộn rã tiếng hát, ông Lũy không giấu được niềm tự hào. "Người ta bảo cây tre măng là "cây ông Lũy". Tôi chả dám nhận. Đó là công của Đảng, của Nhà nước, của tập thể, và nhất là của dân. Tôi chỉ là người nhiệt tình nhất trong hệ thống cán bộ địa phương lúc đó mà thôi".