Sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 173/2024/QH15, trong đó quy định cấm sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, lưu hành, sử dụng các sản phẩm thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng, một loạt câu hỏi pháp lý lớn đã đặt ra: Làm sao để thực hiện lệnh cấm này một cách minh bạch, hiệu quả và không xung đột với các đạo luật hiện hành? Làm sao để tránh “khoảng trống pháp lý” và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người dân và doanh nghiệp?
Để làm rõ các vấn đề trên, PV Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao với ông Lê Đại Hải, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế (Bộ Tư pháp) người trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng, rà soát, hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thưa ông, sau khi Nghị quyết 173 được ban hành, nhiều ý kiến cho rằng hệ thống pháp luật hiện hành đang thiếu đồng bộ và xuất hiện xung đột. Quan điểm của ông ra sao?
Theo tôi, thực tế là, Luật Phòng, Chống tác hại thuốc lá (PCTHTL) hiện vẫn là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động liên quan đến thuốc lá, nhưng lại chưa có định nghĩa cụ thể về thuốc lá điện tử (TLĐT), thuốc lá nung nóng (TLNN) hay các sản phẩm lai. Trong khi đó, Nghị quyết 173 lại quy định cấm toàn diện các sản phẩm này, dẫn đến mâu thuẫn giữa chính sách và quy phạm pháp luật hiện hành.

Ông Lê Đại Hải, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự – Kinh tế (Bộ Tư pháp) cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất chính là sự thiếu rõ ràng trong định nghĩa pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật của các sản phẩm thuốc lá mới. Ảnh: Quang Vinh.
Một ví dụ cụ thể: Luật Đầu tư hiện quy định ngành thuốc lá là “kinh doanh có điều kiện”, không nằm trong danh mục cấm. Nếu cấm TLĐT, TLNN mà không sửa Luật Đầu tư, sẽ phát sinh xung đột pháp lý trong quá trình xử lý hành vi vi phạm. Do đó, điều kiện tiên quyết là đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, sửa luật và dưới luật theo hướng nhất quán, khả thi và khoa học.
Vậy theo ông, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho thuốc lá mới là gì?
Điểm nghẽn lớn nhất chính là sự thiếu rõ ràng trong định nghĩa pháp lý và tiêu chuẩn kỹ thuật của các sản phẩm thuốc lá mới.
Hiện tại, chúng ta đang thiếu một “khung nhận diện pháp lý” cho từng nhóm sản phẩm. TLĐT, TLNN và các sản phẩm lai giữa chúng rất đa dạng về cấu trúc, thành phần, cơ chế hoạt động. Nếu không định nghĩa rõ ràng, không xây dựng tiêu chuẩn hóa cụ thể, thì khó có thể quản lý hiệu quả, thậm chí sẽ bị các đối tượng lợi dụng kẽ hở để lách luật.
Ngoài ra, việc thiếu điều khoản chuyển tiếp trong triển khai Nghị quyết 173 cũng đang đặt các doanh nghiệp nhập khẩu, sản xuất, phân phối vào thế bị động. Rất nhiều lô hàng nhập khẩu hợp pháp trước 1/1/2025 hiện đang bị “kẹt” tại cửa khẩu vì chưa có hướng dẫn xử lý rõ ràng.
Nghị quyết 173 quy định “cấm toàn diện” thuốc lá mới, trong khi nhiều quốc gia vẫn cho lưu hành có điều kiện. Liệu điều này có tạo ra rủi ro trong quan hệ thương mại quốc tế, thưa ông?
Tất nhiên là có. Trong thời đại hội nhập, khi Việt Nam đã tham gia hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA), chính sách nội địa cần hài hòa với các cam kết quốc tế.
Nếu chúng ta cấm toàn diện một loại hàng hóa đang được lưu hành ở trên 90 quốc gia, nhưng không chứng minh được lý do khoa học và lợi ích công cộng hợp lý, rất dễ bị đánh giá là phân biệt đối xử hoặc hạn chế thương mại không cần thiết.
Đặc biệt, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư hợp pháp vào sản xuất thiết bị TLNN tại Việt Nam để xuất khẩu. Nay với lệnh cấm, không chỉ thị trường trong nước bị chặn mà cả việc xuất khẩu cũng gặp trở ngại. Đây là nguy cơ dẫn tới tranh chấp đầu tư quốc tế nếu không có giải pháp hài hòa.
Ông nhắc đến “giải pháp hài hòa”. Vậy theo ông, Việt Nam nên triển khai lệnh cấm này như thế nào để đảm bảo công bằng, hợp pháp và không tạo ra rủi ro pháp lý?
Trước hết, chúng ta phải thể chế hóa Nghị quyết 173 bằng cách sửa Luật PCTHTL, bổ sung định nghĩa về các loại thuốc lá mới, đưa TLĐT, TLNN vào phạm vi điều chỉnh và xác định rõ nhóm nào cấm, nhóm nào kiểm soát.
Thứ hai, phải sửa Phụ lục 4 của Luật Đầu tư, tách TLĐT và TLNN ra khỏi nhóm “kinh doanh có điều kiện” để chuyển vào nhóm “ngành nghề cấm đầu tư, kinh doanh”.
Thứ ba, trong ngắn hạn, cần có một “điều khoản chuyển tiếp” để xử lý tồn đọng, ví dụ cho phép các doanh nghiệp đã nhập hàng trước thời điểm hiệu lực được tiêu thụ nốt hoặc tái xuất, tránh thiệt hại nặng nề.
Thứ tư, cần ban hành hướng dẫn thực thi rõ ràng, minh bạch, kèm theo chế tài phù hợp, tránh để người dân và doanh nghiệp rơi vào trạng thái “mơ hồ pháp lý”.
Ông đánh giá thế nào về tính khả thi của việc sửa hàng loạt luật và nghị định trong thời gian ngắn?
Nếu có quyết tâm chính trị và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, việc này hoàn toàn khả thi. Vấn đề là phải làm đồng bộ, không thể sửa mỗi một đạo luật rồi chờ các luật khác “đuổi theo”. Đây là hệ sinh thái pháp lý, phải vận hành như một chỉnh thể.

Nếu không nhanh chóng cập nhật luật pháp để bắt kịp thực tiễn, Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với lỗ hổng quản lý, khó kiểm soát hành vi vi phạm từ thuốc lá. Ảnh: minh họa.
Bộ Tư pháp đã kiến nghị thành lập Tổ công tác liên ngành để rà soát, đề xuất sửa đổi đồng bộ các văn bản liên quan: Luật PCTHTL, Luật Đầu tư, Luật Quản lý ngoại thương, Nghị định 67, Nghị định 98... Nếu thực hiện được trong năm 2025, thì đến năm 2026 chúng ta sẽ có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để quản lý thuốc lá mới một cách toàn diện, chặt chẽ và minh bạch.
Theo ông, trong dài hạn, chúng ta nên kiểm soát thuốc lá mới theo mô hình nào để vừa bảo vệ sức khỏe cộng đồng, vừa không tạo rào cản thương mại?
Tôi cho rằng nên tiến tới kiểm soát theo mức độ rủi ro, thay vì cấm tuyệt đối. Tức là, nếu sản phẩm nào gây hại ít hơn, có thể áp dụng cơ chế quản lý chặt chẽ về độ tuổi sử dụng, ghi nhãn cảnh báo, thuế tiêu thụ đặc biệt… tương tự như cách chúng ta đang quản lý rượu bia.
Đây là xu hướng của nhiều quốc gia phát triển, họ không xóa sổ các sản phẩm có hại, mà kiểm soát chúng dưới góc độ sức khỏe cộng đồng và kinh tế học hành vi. Nếu không làm như vậy, chúng ta dễ đối mặt với buôn lậu, thị trường chợ đen, và càng khó kiểm soát hơn.
Trân trọng cảm ơn ông!