| Hotline: 0983.970.780

Khai thác tiềm năng tín chỉ các-bon: [Bài 3] Hướng mới cho hạt lúa

Thứ Hai 08/12/2025 , 19:51 (GMT+7)

Mô hình lúa giảm phát thải ở Thanh Hóa đang mở ra cơ hội phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn, hướng đến tạo tín chỉ các-bon.

"Việc triển khai các mô hình lúa giảm phát thải không chỉ là bước tiến kỹ thuật, mà còn là cơ hội để nông dân tiếp cận giá trị gia tăng mới thông qua tín chỉ các-bon", ông Nguyễn Đức Cường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa nói.

Những cánh đồng lúa ở Yên Phong đang âm thầm chuyển mình. Mực nước không còn tràn ngập như nhiều năm trước mà được duy trì ở mức vừa phải, lúc ướt, lúc khô. Đây chính là hình ảnh của phương pháp tưới ướt khô xen kẽ (AWD), kỹ thuật tiên tiến đang được Thanh Hóa triển khai rộng rãi. Những thay đổi tưởng chừng nhỏ này lại mang ý nghĩa lớn trong việc chuyển đổi nền nông nghiệp tỉnh, hướng tới phát triển bền vững và tạo giá trị mới cho hạt lúa thông qua tín chỉ các-bon.

Thanh Hóa thực hiện thí điểm mô hình tạo tín chỉ các-bon trong sản xuất lúa tại xã Yên Phong. Ảnh: Anh Toản.

Thanh Hóa thực hiện thí điểm mô hình tạo tín chỉ các-bon trong sản xuất lúa tại xã Yên Phong. Ảnh: Anh Toản.

Với tổng diện tích gieo trồng lúa khoảng 225.000 ha mỗi năm, Thanh Hóa là một trong những địa phương có quy mô sản xuất lúa lớn nhất cả nước. Điều này đồng nghĩa với lượng phát thải khí mê-tan, loại khí nhà kính có hiệu ứng mạnh gấp hàng chục lần CO₂, cũng sẽ giảm đáng kể. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, ngành nông nghiệp tỉnh không chỉ phải đảm bảo an ninh lương thực mà còn hướng tới giảm phát thải, thích ứng với khí hậu và từng bước tham gia thị trường các-bon, xu hướng mới của nền kinh tế xanh.

Từ thí điểm đến mở rộng mô hình lúa các-bon thấp

Năm 2024, Thanh Hóa triển khai mô hình thí điểm “Tạo tín chỉ các-bon trong sản xuất lúa” tại xã Yên Phong. Với 100 ha áp dụng quy trình AWD, mô hình ghi nhận mức giảm phát thải trung bình 4,84 tấn CO₂ tương đương/ha. Đây là kết quả khả quan trong điều kiện canh tác địa phương, đồng thời là cơ sở để tính toán lượng tín chỉ các-bon có thể giao dịch trên thị trường.

Thành công bước đầu mở đường cho các chương trình hợp tác trong năm 2025. Tỉnh ký kết biên bản ghi nhớ với Công ty Faeger (Nhật Bản) để triển khai 200 ha lúa giảm phát thải ngay trong năm và đặt mục tiêu mở rộng đến 50.000 ha vào năm 2030. Các mô hình không chỉ triển khai quy mô lớn mà còn đi sâu nghiên cứu chuyên sâu. Tại Thọ Xuân, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa phối hợp chuyên gia Nhật Bản thực hiện thí nghiệm trên diện tích 4.000 m², chuẩn hóa quy trình điều tiết nước để rút ra thông số phù hợp nhất với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng địa phương.

Kỹ thuật viên thực hiện lấy mẫu đo giảm phát thải ở lúa. Ảnh: Anh Toản.

Kỹ thuật viên thực hiện lấy mẫu đo giảm phát thải ở lúa. Ảnh: Anh Toản.

Song song với đó, Công ty Green Carbon mở rộng dự án lên hơn 5.600 ha trong cả hai vụ Xuân - Thu mùa 2025, tại nhiều xã vùng trọng điểm như Yên Định, Yên Trường, Yên Phú, Định Tân, Định Hòa. Những vùng đất vốn quen thuộc với canh tác truyền thống nay kết hợp với các thiết bị đo mực nước, ghi chép số liệu điện tử và theo dõi qua ứng dụng di động, giúp quản lý hiệu quả, giảm phát thải rõ rệt.

Sự tham gia của Trường Đại học Bách khoa tạo điểm nhấn trong việc đẩy mạnh công nghệ số vào đồng ruộng. Mô hình lúa ứng dụng AI tại Hoằng Lộc và Hà Long cho phép theo dõi độ ẩm, tình trạng cây trồng và dự báo sâu bệnh theo thời gian thực, giúp nông dân chủ động điều chỉnh các biện pháp kỹ thuật.

Tính đến thời điểm hiện tại, toàn tỉnh có 5.887,4 ha lúa giảm phát thải, với mức giảm ổn định 4,5–5 tấn CO₂eq/ha. Đây là những vùng sản xuất đáp ứng yêu cầu đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) rào cản kỹ thuật quan trọng để tín chỉ các-bon đủ điều kiện tham gia thị trường.

Kỹ thuật viên thực hiện lấy mẫu đo giảm phát thải ở lúa. Ảnh: Anh Toản.

Kỹ thuật viên thực hiện lấy mẫu đo giảm phát thải ở lúa. Ảnh: Anh Toản.

Tuy nhiên, quá trình triển khai cũng gặp nhiều khó khăn. Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún khiến việc áp dụng đồng bộ kỹ thuật gặp cản trở. Thời tiết thất thường, đôi khi gây hạn kéo dài hoặc mưa trái mùa, làm gián đoạn quy trình AWD vốn đòi hỏi kiểm soát mực nước chính xác. Sâu bệnh diễn biến phức tạp cũng gây áp lực lớn lên năng suất. Ngoài ra, thị trường tín chỉ carbon còn mới với cả doanh nghiệp lẫn nông dân, khiến việc tổ chức sản xuất, ghi chép và kiểm chứng đòi hỏi hỗ trợ kỹ thuật lớn.

Ông Nguyễn Đức Cường nhấn mạnh: “Điều quan trọng là phải đồng bộ về kỹ thuật, công nghệ và chính sách, từ đó tạo ra nền nông nghiệp xanh, bền vững và có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.”

Đồng bộ kỹ thuật, số hóa và chính sách hướng tới 100.000 ha lúa các-bon thấp

Nhằm phù hợp với Đề án giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2030 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Thanh Hóa xây dựng định hướng nâng quy mô canh tác lúa các-bon thấp lên 100.000 ha, đồng thời phát triển 15.000 ha mía giảm phát thải.

Tỉnh triển khai các giải pháp đồng bộ, hướng tới hiệu quả kinh tế và môi trường. Thanh Hóa tăng tốc xây dựng thể chế và chính sách, ưu tiên các đề án trọng điểm về nông nghiệp hữu cơ, công nghệ cao, phát triển sản phẩm chủ lực và sử dụng phân bón hữu cơ. Đồng thời, cơ chế khuyến khích được thiết lập, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và nông dân mạnh dạn tham gia thị trường các-bon, lĩnh vực còn nhiều tiềm năng nhưng đòi hỏi khung chính sách minh bạch.

Thiết bị đo giảm phát thải trong sản xuất lúa. Ảnh: Anh Toản.

Thiết bị đo giảm phát thải trong sản xuất lúa. Ảnh: Anh Toản.

Chuẩn hóa quy trình kỹ thuật được đặt lên hàng đầu. AWD, SRI và các biện pháp quản lý nước, dinh dưỡng tiên tiến được áp dụng thống nhất trên toàn vùng sản xuất, giảm khác biệt giữa các vùng, nâng cao độ tin cậy số liệu phát thải, giúp quá trình đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV) thuận lợi, đảm bảo tín chỉ carbon đạt chuẩn quốc tế.

Công nghệ số trở thành công cụ đắc lực trong quản lý sản xuất. Hệ thống cảm biến mực nước, hình ảnh vệ tinh, nhật ký điện tử và nền tảng dữ liệu giúp giám sát minh bạch, tiết kiệm thời gian và giảm rủi ro sai sót. Công nghệ còn hỗ trợ đánh giá lượng phát thải giảm được, kết nối dự án carbon và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, nâng cao giá trị nông sản và uy tín trên thị trường.

Vai trò của nông dân và các hợp tác xã được chú trọng. Nguồn thu từ tín chỉ các-bon được phân chia minh bạch, đảm bảo nông dân hưởng lợi trực tiếp, tạo động lực duy trì và mở rộng các biện pháp canh tác giảm phát thải, đồng thời nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.

Thanh Hóa là một trong những địa phương có quy mô sản xuất lúa lớn nhất cả nước. Ảnh: Trịnh Tâm.

Thanh Hóa là một trong những địa phương có quy mô sản xuất lúa lớn nhất cả nước. Ảnh: Trịnh Tâm.

Thanh Hóa thúc đẩy liên kết đa bên giữa doanh nghiệp, viện, trường và tổ chức quốc tế. Sự hợp tác này giúp chuyển giao công nghệ, tiếp cận nguồn lực tài chính xanh và mở rộng thị trường cho sản phẩm lúa và mía các-bon thấp, hướng tới nền nông nghiệp xanh, bền vững và giàu giá trị.

Song song với tín chỉ các-bon , tỉnh cũng tính toán phát triển các giá trị gia tăng mới: sử dụng phụ phẩm lúa để sản xuất phân hữu cơ, nhiên liệu sinh học, phát triển gạo carbon thấp hoặc xây dựng mô hình du lịch nông nghiệp gắn với sản xuất xanh. Điều này vừa tạo nguồn thu bổ sung vừa hình thành hệ sinh thái nông nghiệp tuần hoàn.

Những kết quả bước đầu về lúa các-bon thấp tại Thanh Hóa cho thấy hướng đi này hoàn toàn khả thi, nhưng vẫn còn nhiều thách thức thực tế. Quy mô sản xuất chưa đồng đều, thời tiết thất thường và kỹ thuật áp dụng đòi hỏi sự kiểm soát cao, trong khi thị trường tín chỉ các-bon vẫn còn mới mẻ với nhiều nông dân và doanh nghiệp.

Nguồn thu từ bán tín chỉ các-bon sẽ là động lực để người nông dân gắn bó với cây lúa. Ảnh: Thanh Tâm.

Nguồn thu từ bán tín chỉ các-bon sẽ là động lực để người nông dân gắn bó với cây lúa. Ảnh: Thanh Tâm.

“Nguồn thu từ tín chỉ các-bon giúp nông dân có thêm động lực, nhưng để đạt quy mô lớn và bền vững, chúng ta cần đồng bộ chính sách, chuẩn hóa kỹ thuật và nâng cao ứng dụng công nghệ”, ông Nguyễn Đức Cường nhấn mạnh.

Mỗi ha lúa được quản lý khoa học, mỗi tín chỉ các-bon tạo ra đều gắn trực tiếp với lợi ích kinh tế và môi trường. Với sự đồng hành của người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, Thanh Hóa đang dần hình thành một nền nông nghiệp xanh vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa góp phần giảm phát thải, hướng tới giá trị bền vững cho người nông dân.

Xem thêm
Bảo tồn đa dạng sinh học ở Nghệ An - cuộc chiến không khoan nhượng

Nghệ An quyết liệt triển khai Đề án 1623/QĐ-TTg, tăng cường phòng chống tội phạm đa dạng sinh học; ba năm sơ kết ghi nhận chuyển biến trong bảo vệ hành lang xanh miền Tây.

VWS sẵn sàng tiếp nhận và xử lý rác ngoài giờ khi có yêu cầu

VWS sẵn sàng phối hợp cùng TP.HCM và Sở Nông nghiệp Môi trường trong tiếp nhận và xử lý rác vào giờ cao điểm, ngoài giờ từ ngày 1/12/2025 khi có yêu cầu.

Ứng dụng công nghệ viễn thám trong quản lý ngành nông nghiệp và môi trường

Ứng dụng công nghệ viễn thám và trí tuệ nhân tạo đang trở thành công cụ chiến lược giúp Việt Nam hiện đại hóa quản lý nông nghiệp và môi trường thông minh.

Người dân tự nguyện giao nộp ba cá thể động vật quý hiếm

Khi phát hiện 3 cá thể động vật lạ, người dân đã tự nguyện giao nộp. 3 cá thể sau đó được xác định là động vật nguy cấp, quý hiếm.

Bình luận mới nhất

Khai thác tiềm năng tín chỉ các-bon: [Bài 3] Hướng mới cho hạt lúa
Biến đổi khí hậu 8 giây trước