Ngày 3/12, Quốc hội đã nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn đến năm 2035. Chương trình bao gồm nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc phỏng vấn Đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội, GS.TS Nguyễn Thị Lan về nội dung này.
Thưa Đại biểu Nguyễn Thị Lan, dự thảo Chương trình Mục tiêu Quốc gia giai đoạn 2026 - 2035 đang được đánh giá là một trong những chương trình quan trọng của ngành nông nghiệp và môi trường trong thập kỷ tới. Với góc nhìn của mình, là đại biểu Quốc hội, là GS.TS, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, bà nhận định như thế nào về chất lượng chuẩn bị và mức độ đáp ứng của dự thảo đối với yêu cầu phát triển trong bối cảnh hiện nay?
GS.TS Nguyễn Thị Lan, Đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội, Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Phạm Thắng.
Trước hết, tôi xin đánh giá rất cao Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các cơ quan thẩm tra đã chuẩn bị dự thảo rất công phu, bài bản và sát với yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Đây là một chương trình rất cần thiết, vì nông nghiệp, nông dân, nông thôn tiếp tục là nền tảng quan trọng cho ổn định kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh lương thực và thích ứng biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh thu nhập còn thấp, chênh lệch vùng miền còn lớn, việc xây dựng một chương trình tổng thể, dài hạn và tích hợp cao là hết sức kịp thời.
Tôi đánh giá cao ba điểm nổi bật của dự thảo. Một là cách tiếp cận tích hợp ba chương trình vào một khung chung, giúp giảm trùng lặp và nâng hiệu quả đầu tư. Thứ hai là định hướng phát triển hiện đại, chú trọng chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và ứng dụng khoa học công nghệ. Và cuối cùng là các mục tiêu rõ ràng, có cơ sở, đặc biệt là mục tiêu nâng thu nhập 2,5 đến 3 lần và nâng cao mạnh mẽ chất lượng sống nông thôn.
Theo tôi, đây là nền tảng quan trọng để chuyển từ “đạt chuẩn” sang “phát triển bền vững, bao trùm, hiện đại”.
Bên cạnh những ưu điểm rõ rệt, nhiều ý kiến cho rằng Chương trình MTQG cần hoàn thiện hơn để phù hợp với yêu cầu mới của phát triển nông thôn hiện đại. Từ thực tế nghiên cứu và theo dõi lĩnh vực này, bà có thể chia sẻ những nhóm vấn đề mà bà cho rằng cần được bổ sung, đặc biệt liên quan đến nguồn nhân lực, khoa học công nghệ và thích ứng khí hậu?
Hiện nay, nông nghiệp đang chuyển mạnh sang mô hình sản xuất hiện đại, từ số hóa, tự động hóa đến quản trị chuỗi giá trị. Nếu nguồn nhân lực nông thôn không được trang bị kỹ năng mới thì rất khó tiếp cận công nghệ và nâng cao năng suất. Tôi xin đề xuất bốn nhóm nội dung.
Thứ nhất là về nguồn nhân lực nông thôn. Dự thảo đã đề cập đào tạo nghề nhưng còn chung chung, trong khi nông nghiệp hiện nay đòi hỏi kỹ năng mới như số hóa, tự động hóa, quản trị sản xuất. Tôi đề nghị bổ sung chương trình đào tạo “nguồn nhân lực nông thôn thế hệ mới”, tập trung vào kỹ năng số, kỹ năng vận hành máy móc hiện đại và kỹ năng quản trị kinh doanh nông nghiệp. Đồng thời tăng vai trò của các trường đại học, viện nghiên cứu trong chuyển giao công nghệ trực tiếp cho nông dân. Kinh nghiệm ở Lâm Đồng, Đồng Tháp, Sơn La hay các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Hà Lan cho thấy phát triển nông thôn bền vững phải bắt đầu từ con người.
Thứ hai là về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Dự thảo hiện chưa quy định tỷ lệ ngân sách dành cho khoa học công nghệ và chưa có cơ chế đặt hàng nghiên cứu. Tôi đề nghị thành lập Quỹ Đổi mới sáng tạo nông thôn; triển khai đặt hàng nghiên cứu theo nhu cầu địa phương; ưu tiên công nghệ sinh học, giống, chuyển đổi số, IoT, AI; và tăng liên kết giữa viện - trường - doanh nghiệp - địa phương. Bài học của Israel, Hà Lan, Hàn Quốc cho thấy muốn nâng giá trị nông sản và vượt qua hạn chế tài nguyên, phải dựa vào khoa học và đổi mới sáng tạo.
Thứ ba là về kinh tế môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Dự thảo chưa có bộ chỉ số sức khỏe đất, nước, chưa đề cập rõ ràng mô hình nông nghiệp carbon thấp hay giải pháp khí hậu theo vùng. Trong bối cảnh 40 - 50% đất nông nghiệp đã suy thoái, tôi đề nghị bổ sung bộ chỉ số đất, nước cho xã nông thôn mới; phát triển nông nghiệp tái sinh, nông nghiệp carbon thấp; lồng ghép giải pháp khí hậu theo vùng; và bổ sung tiêu chí kinh tế môi trường, tuần hoàn chất thải. Đây cũng là yêu cầu để đáp ứng tiêu chuẩn cao của EU và Mỹ trong xuất khẩu nông sản.
Thứ tư là về cơ chế phân cấp, giám sát và đo lường kết quả. Dự thảo cần bổ sung hệ thống giám sát số hóa, bộ chỉ số đầu ra và quy định trách nhiệm giải trình. Tôi đề nghị chuyển từ đánh giá “bao nhiêu xã đạt chuẩn” sang đánh giá thêm về thu nhập, sinh kế, môi trường và mức độ giảm nghèo thực chất. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống giám sát số hóa từ tỉnh đến xã. Kinh nghiệm của Hàn Quốc, Trung Quốc hay Quảng Ninh, Bình Dương cho thấy minh bạch và giám sát chặt là chìa khóa để chương trình chạy đúng hướng và hiệu quả.
Với những phân tích và đề xuất như vậy, bà có kỳ vọng chương trình sẽ đem lại những chuyển biến gì cho nông thôn Việt Nam trong giai đoạn tới, nếu các nội dung này được tiếp thu và thực hiện đầy đủ?
Tôi tin rằng nếu được bổ sung, những đề xuất này sẽ giúp chương trình đi vào chiều sâu, hiệu quả hơn, minh bạch hơn và mang lại lợi ích thực chất cho người dân nông thôn.
Những thay đổi đó không chỉ cải thiện thu nhập, sinh kế và môi trường sống mà còn tạo nền tảng để nông thôn Việt Nam phát triển bền vững, hài hòa và hiện đại hơn trong giai đoạn mới.
Xin cảm ơn Bà đã chia sẻ!








![Quảng Ninh kiến tạo nông thôn mới bền vững: [Bài 5] Hiện đại hóa nông thôn](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/thanhntctv/2025/11/28/0730-dji_0331-nongnghiep-110710.jpg)



![Đổi thay ở Mường Kim: [Bài cuối] Nông nghiệp - Du lịch, sinh kế tích hợp](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/nghienmx/2025/12/01/4948-2101162865794018574-1-234543_543.jpg)



![Đổi thay ở Mường Kim: [Bài 1] Măng Bát Độ bén rễ, sinh kế ‘đâm chồi’](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/thamdth/2025/11/29/2929-bai-1-nongnghiep-202916.jpg)


