Giảm nghèo ở đô thị là một trong những trọng tâm của Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tại TP.HCM. Đầu năm 2025, khi tổng kết giai đoạn 2021-2025 và đề xuất cho giai đoạn 2026- 2030, UBND thành phố đặt mục tiêu: Phấn đấu đến cuối năm 2030, nâng mức chuẩn hộ nghèo về thu nhập của TP.HCM cao gấp 2 lần so với mức chuẩn chung cả nước, cơ bản không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia, còn dưới 0,5% hộ nghèo theo chuẩn nghèo TP.HCM.
Sau khi sáp nhập thêm Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, bài toán giảm nghèo đô thị của TP.HCM sẽ thay đổi ra sao? Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa, Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển TP.HCM đã có cuộc trao đổi với Báo Nông nghiệp và Môi trường.
Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa. Ảnh: T.H
Thưa Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa, từ 1/7/2025, việc sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa -Vũng Tàu khiến cho dân số của TP.HCM (mới) tăng lên 14 triệu người. Mục tiêu nâng mức chuẩn thu nhập gấp đôi và giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 0.5% cho thành phố có khả thi không?
Kế hoạch này hoàn toàn khả thi, vì tỷ lệ hộ nghèo của Bà Rịa - Vũng Tàu theo chuẩn quốc gia năm 2024 là 0%, còn Bình Dương tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 1,06%, tương đương với 4.306 hộ nghèo trên tổng số hơn 404.832 hộ dân.
Vấn đề là TP.HCM (mới) cần có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn, quy hoạch đồng bộ, huy động tốt mọi nguồn lực. Nếu cả ba địa phương tích hợp lại trở thành trung tâm tăng trưởng mạnh nhất Đông Nam Á, thì kế hoạch giảm nghèo xuống dưới 0,5% theo chuẩn riêng của TP.HCM là hoàn toàn trong tầm tay. Thậm chí chuẩn nghèo của TP.HCM mới có thể nâng lên không gấp đôi mà đạt mức 2,5 lần.
Theo ông, người nghèo đô thị có những điểm gì khác so với người nghèo ở nông thôn?
Theo tôi, người người nghèo đô thị ở trong tình trạng bấp bênh và dễ tổn thương hơn. Ở nông thôn người nghèo có thể dựa vào cộng đồng, dòng họ, làng xóm hoặc có thể tự xoay xở từ chính môi trường sống. Khi “thóc cao, gạo kém”, họ vẫn có thể tìm được con cua, còn cá, mớ rau, trừ khi xảy ra thiên tai lớn khiến sinh kế bị gián đoạn hoàn toàn. Trong khi đó, người nghèo đô thị rất dễ bị rơi vào tình trạng tái nghèo chỉ vì những rủi ro bất thường.
Khái niệm “cận nghèo” có thể hiểu là những người vừa vượt qua ngưỡng nghèo. Ngưỡng này, còn được gọi là đường nghèo đói - được Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Quốc tế, Ngân hàng ADB xác định ở mức 2 USD/ngày. Những người mà mọi nhu cầu chi tiêu một ngày gói gọn trong 2 USD trở xuống là thuộc nhóm nghèo đói.
Những người có thu nhập nhỉnh hơn một chút nhưng vẫn sát ngưỡng này, gọi là cận nghèo. Chỉ cần một biến cố như đau ốm, hỏa hoạn, tai nạn, vay nợ, họ có thể rơi trở lại dưới ngưỡng nghèo ngay lập tức. Đây là lý do người dân nghèo đô thị luôn luôn đối mặt với tái nghèo.
Liệu ý chí “không có hộ nghèo ở đô thị” có thể thực hiện chăng?
Về mặt chủ trương, có thể đặt mục tiêu xây dựng một xã hội không có người nghèo. Nhưng nhìn từ góc độ khoa học, điều này không thể đạt tới tuyệt đối. Chừng nào còn xã hội loài người, chừng đó vẫn còn nhóm yếu thế.
Có hai khái niệm “nghèo tuyệt đối” và “nghèo tương đối”. Nghèo tuyệt đối là không có cái ăn, chỗ ở - yếu tố có thể giải quyết được trên 90%. Bằng chứng là TP.HCM không có người đói lương thực.
Nghèo tương đối là sự so sánh mức sống trong xã hội. Có hai mô hình hiển thị. Mô hình kim tự tháp, có chóp nhọn và đáy rộng, phổ biến ở các nước nghèo, kém phát triển. Kim tự tháp có 3 tầng: Tầng đỉnh chiếm 7-10% là người giàu có, tầng tiếp theo là 30-40% là người trung lưu, còn tầng cuối là 50-60% là người nghèo.
Mô hình còn lại có dạng quả trám, phần đầu và phần cuối đều nhọn, phần giữa phình to. Phần giữa chiếm 70% là người trung lưu, phần đầu là người giàu chiếm 10-15% và phần cuối là người nghèo chiếm 10-15%. Đây là mô hình các nước phát triển.
Chăm lo thế hệ tương lai là một giải pháp cộng đồng để giảm nghèo ở đô thị. Ảnh: T.H
Tại sao hai mô hình ông nêu ra, mô hình nào cũng có người nghèo?
Đơn giản là ngay từ vạch xuất phát khi sinh ra của mỗi người đã không giống nhau. Có những người có sức khỏe tốt, sinh ra trong gia đình có điều kiện về kinh tế và giáo dục; nhưng có những người bị tật nguyền, mồ côi, sinh ra ở nơi “chó ăn đá gà ăn sỏi”, không có điều kiện học hành. Người nghèo đô thị được gọi chung với một cái tên là “nhóm những người yếu thế” hay là “nhóm những người dễ tổn thương”. Họ là người tật nguyền, bệnh đau, người già không thu nhập không nơi nương tựa, phụ nữ đơn thân đông con, người dân tộc thiểu số bị tách khỏi cộng đồng...
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc có môt ví dụ rất hay về nhóm dễ tổn thương. Họ ví những người này như người đang đứng dưới nước, mặt nước sát ngay lỗ mũi, phải nhóm chân lên mới thở được, chỉ cần một cơn gió nhẹ là bị sặc nước, có khi chìm nghỉm.
Chính vì thế mà các quốc gia phát triển có quỹ phúc lợi xã hội, các quỹ an sinh để hỗ trợ nhóm dễ tổn thương. Ngay người nhận trợ cấp 1.000 Euro ở châu Âu (gần 25 triệu đồng Việt Nam) vẫn được xếp là người nghèo. Chưa kể có không ít người chọn cuộc sống “homeless” (vô gia cư) để được hưởng trợ cấp hơn là đi làm kiếm tiền.
Theo ông, có giải pháp hiệu quả cho giảm nghèo ở đô thị không?
Theo tôi, không có một giải pháp đơn lẻ. Bất cứ quốc gia, tỉnh thành nào muốn giảm nghèo cũng phải sử dụng một hệ thống giải pháp tổng hợp: chính trị - luật pháp, kinh tế - tài chính; văn hóa - xã hội; cộng đồng và các giải pháp kỹ thuật khác. Tùy từng đối tượng và đặc tính vùng miền mà có những giải pháp thích hợp khác nhau và mức độ ưu tiên khác nhau, như vốn, kỹ thuật, kỹ năng, thị trường tiêu thụ...
Nhưng trên tất cả, yếu tố quyết định vẫn là ý chí, sự mong muốn và quyết tâm của mỗi gia đình, cá nhân, cộng đồng. Hệ thống giải pháp có thể hỗ trợ, nhưng sự chủ động thoát nghèo mới là nền tảng bền vững nhất.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
















