Một đề án nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành trồng trọt
Sáng 30/7 tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức hội nghị tham vấn Dự thảo Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 - 2035.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung cho biết, theo số liệu kiểm kê khí nhà kính quốc gia năm 2020, tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO₂ tương đương (CO₂tđ), tăng gần gấp đôi so với năm 2010. Trong đó lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất (AFOLU) xếp thứ 3, chiếm 9,5% tổng lượng phát thải của Việt Nam (sau lĩnh vực năng lượng với tỷ trọng lớn nhất khoảng 63% và các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm - IPPU chiếm 19,6%).

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung tham quan gian hàng của Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI), tìm hiểu các sản phẩm than sinh học trưng bày. Ảnh: Hồng Thắm.
“Thực tế này đặt ra yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi mô hình sản xuất trồng trọt theo hướng phát thải thấp, bền vững, thích ứng linh hoạt. Đặc biệt, trồng trọt không chỉ là lĩnh vực có lượng phát thải lớn mà còn là ngành có tiềm năng giảm phát thải lớn nếu được định hướng đúng nhờ vào các giải pháp kỹ thuật đơn giản, chi phí hợp lý và khả năng nhân rộng nhanh chóng ở cả quy mô quốc gia và nông hộ”, Thứ trưởng Hoàng Trung nói.
Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xây dựng Dự thảo “Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 - 2035” với mục tiêu thiết lập một chương trình hành động đồng bộ ở quy mô quốc gia, chuyển đổi trong tư duy, kỹ thuật canh tác, tổ chức sản xuất và hợp tác thị trường.
"Đây không chỉ là yêu cầu khách quan để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển xanh - kinh tế tuần hoàn - hội nhập thị trường carbon toàn cầu mà còn là bước đi tất yếu trong việc thực hiện đầy đủ và có trách nhiệm các cam kết khí hậu quốc tế của Việt Nam", Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh.
Than sinh học - chìa khóa giảm phát thải và phát triển nông nghiệp tuần hoàn
Tại hội nghị, TS Đỗ Thị Hương, cán bộ Nông nghiệp bền vững của Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) Việt Nam chia sẻ, than sinh học (biochar) có nhiều lợi ích như: Cải thiện cấu trúc và độ màu mỡ của đất, giúp giữ ẩm, giữ dinh dưỡng tốt hơn; tăng hiệu quả sử dụng phân bón, giảm thất thoát phân bón ra môi trường; giảm phát thải khí nhà kính (đặc biệt là CO₂, CH₄ và N₂O) nhờ khả năng cố định carbon trong đất có thể lên đến hàng trăm năm.
Theo ước tính của Viện Môi trường Nông nghiệp năm 2024, Việt Nam có hơn 93,6 triệu tấn phụ phẩm trồng trọt nhưng mới chỉ thu gom và sử dụng hơn 52% trong số này. Trong đó, các phụ phẩm chủ yếu gồm rơm rạ (35,1 triệu tấn/năm), trấu (8,9 triệu tấn/năm), vỏ cà phê (1,4 triệu tấn/năm), lõi ngô (0,8 triệu tấn/năm)… Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào, phân bố rộng khắp, có tiềm năng lớn để sản xuất than sinh học.

TS Đỗ Thị Hương, cán bộ Nông nghiệp bền vững thuộc Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) Việt Nam chia sẻ, than sinh học có nhiều lợi ích. Ảnh: Hồng Thắm.
Bà Hương cho biết, báo cáo đánh giá của Sáng kiến than sinh học Hoa Kỳ (USBI) cho hay, thị trường than sinh học toàn cầu năm 2023 đạt 600 triệu USD và dự kiến tăng lên 3,3 tỷ USD vào 2025. Ngoài giá trị sản phẩm, than sinh học còn mở ra cơ hội thu lợi từ tín chỉ carbon với giá giao dịch có thể lên đến 200 USD/tín chỉ. Tuy nhiên ở Việt Nam, quy mô thị trường còn nhỏ (gần 1.200 tỷ đồng/năm), tỷ lệ tham gia vào thị trường carbon thấp do chi phí và thủ tục chứng nhận phức tạp.
“Sản xuất và phát triển than sinh học ở nước ta dù đã được quy định trong các quy định pháp luật, chiến lược và kế hoạch khác nhau liên quan đến nông nghiệp bền vững, biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường, tuy nhiên hiện vẫn cần có khung pháp lý cụ thể, tiêu chuẩn chất lượng hoặc cơ chế chứng nhận thị trường phát triển và hoàn thiện hơn", bà Hương nhấn mạnh.
Theo đó, GGGI đưa ra 3 khuyến nghị chính. Một là, tạo điều kiện sẵn sàng cho đầu tư và phát triển sản xuất và ứng dụng than sinh học bằng cách ban hành các quy định rõ ràng, xây dựng hệ thống MRV (đo lường - báo cáo - thẩm định) và cơ chế tín chỉ carbon để tích hợp than sinh học vào hệ thống canh tác phát thải thấp, giảm đốt đồng và cải tạo đất.
"Kinh nghiệm từ Hàn Quốc cho thấy sau khi Chính phủ nước này công nhận than sinh học như một loại hình phân bón và triển khai các chương trình trợ cấp, thị trường than sinh học của quốc gia này đang phát triển rất nhanh và sôi động", bà Hương dẫn chứng.
Hai là triển khai mô hình thí điểm nhằm chứng minh tính khả thi, ưu tiên thí điểm tại khu vực có nguồn phụ phẩm dồi dào và hạ tầng phù hợp. Kết hợp công nghệ nhiệt phân quy mô nhỏ, mô hình hợp tác, thử nghiệm chuỗi sản xuất tuần hoàn. Hợp tác với nhà đầu tư trong nước và quốc tế, kiểm chứng hiệu quả về mặt thị trường và huy động tài chính. Đúc rút các bài học kinh nghiệm từ các dự án thí điểm để giảm rủi ro trong nhân rộng và thu hút khu vực tư nhân tham gia chuỗi giá trị than sinh học.
Ba là, hỗ trợ phát triển thị trường và thúc đẩy hệ sinh thái: Định vị than sinh học là đầu vào quan trọng cho nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn và phát thải thấp. Chứng minh lợi ích kinh tế cho nông dân và doanh nghiệp vừa và nhỏ, bao gồm tăng năng suất và thu nhập từ tín chỉ carbon. Phát triển các trung tâm trình diễn vùng để đào tạo, chuyển giao công nghệ và kết nối đầu tư.
Nông dân là trung tâm của chuyển đổi xanh
Nhiều đại biểu cũng đóng góp ý kiến về chuẩn hóa MRV cho ngành lúa gạo, nghiên cứu giống cây trồng, ứng dụng khoa học công nghệ và phát huy vai trò cộng đồng thiểu số trong quá trình chuyển đổi. Riêng với giải pháp than sinh học, Thứ trưởng Hoàng Trung nhấn mạnh đây là hướng đi cần được quan tâm.
Thứ trưởng yêu cầu đơn vị soạn thảo tập trung vào 5 định hướng lớn để Đề án đi vào thực tiễn và mang lại giá trị thiết thực.
Một là tổ chức lại hệ thống sản xuất trồng trọt theo hướng tích hợp đồng bộ kỹ thuật - thể chế - thị trường. Canh tác giảm phát thải không thể chỉ là giải pháp kỹ thuật mà phải là một chiến lược tái cấu trúc ngành, trong đó chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng phát triển nhiều hơn cây lâu năm có giá trị cao, hấp thu carbon; phát triển các loại cây trồng giá trị cao, phát thải thấp hơn (ví dụ rau, hoa trên đất lúa…) cần được làm cụ thể, rõ nét trong Đề án.

Ưu tiên hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và MRV cho trồng trọt. Ảnh: Hồng Thắm.
Hai là phát triển các gói kỹ thuật canh tác phát thải thấp đặc thù cho từng cây trồng, từng vùng sinh thái. Lúa, sắn, cà phê, mía và chuối - 5 nhóm cây trọng tâm phải có hướng dẫn cụ thể, có thể áp dụng đại trà, nhân rộng nhanh chóng.
Ba là ưu tiên hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và MRV cho trồng trọt. Đây là điều kiện tiên quyết để chứng minh hiệu quả giảm phát thải, tham gia thị trường tín chỉ carbon và xây dựng thương hiệu nông sản phát thải thấp.
Bốn là phát triển các chuỗi giá trị bền vững, phát thải thấp, trong đó nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn… cũng cần được đưa vào là một trong các nội dung nhiệm vụ của Đề án. Qua đó thúc đẩy nhãn hiệu phát thải thấp đối với các sản phẩm trồng trọt của Việt Nam.
Năm là đầu tư bài bản cho đào tạo, truyền thông và chuyển đổi nhận thức. Không thể có sản xuất phát thải thấp nếu nông dân và cán bộ cơ sở không hiểu rõ, không thấy lợi ích và không có năng lực thực hành.
Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 - 2035 không chỉ là bước đi đáp ứng các cam kết quốc tế mà còn là cơ hội để ngành trồng trọt Việt Nam nâng tầm cạnh tranh toàn cầu. Việc định vị và phát triển than sinh học sẽ là một mắt xích quan trọng giúp nông nghiệp Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu xanh, tuần hoàn và phát triển bền vững.

Cần định vị than sinh học là đầu vào quan trọng cho nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn và phát thải thấp. Ảnh: HT.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung nhấn mạnh: “Mục tiêu quan trọng nhất của Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025 - 2035 là thay đổi thực hành sản xuất trồng trọt để nâng cao hiệu quả sản xuất, thu nhập và đời sống của nông dân gắn với thích ứng biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Không giới hạn bất kỳ loại cây trồng nào mà cần mở rộng không gian phát triển cho cả ngành trồng trọt, khuyến khích được tính tự chủ, sáng tạo của địa phương, doanh nghiệp”.