Ngày 21/11, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm, sáng kiến áp dụng công nghệ xanh trong cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn.
Công nghệ xanh - xu thế tất yếu
Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế khẳng định, Đảng và Nhà nước đã xác định an ninh nguồn nước là ưu tiên chiến lược trong giai đoạn hiện nay. Điều này thể hiện qua định hướng quản trị tổng hợp tài nguyên nước, phát triển hạ tầng cấp - thoát nước hiện đại, bảo đảm chất lượng nước và thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn.
Ông Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế khẳng định, công nghệ xanh là động lực cốt lõi để giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng và tăng khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, thiên tai. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế nhấn mạnh, khu vực nông thôn là nơi sinh sống của phần lớn dân số cả nước đóng vai trò trung tâm trong việc hiện thực hóa những mục tiêu lớn này. Tuy nhiên, lĩnh vực nước sạch và vệ sinh nông thôn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như suy giảm nguồn nước, ô nhiễm từ sản xuất và sinh hoạt, xâm nhập mặn, hạn hán, hạ tầng chưa đồng bộ và hạn chế về công nghệ, nguồn lực. “Những vấn đề này đòi hỏi phải đổi mới tư duy và cách tiếp cận, trong đó công nghệ xanh phải trở thành động lực cốt lõi để giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu quả vận hành, đồng thời tăng khả năng chống chịu của hệ thống trước biến đổi khí hậu và thiên tai”, ông Tuấn khẳng định.
Đồng quan điểm với Vụ trưởng Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, chia sẻ tại hội thảo, ông Lương Văn Anh, Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho rằng, trước yêu cầu mới, việc áp dụng công nghệ xanh, năng lượng tái tạo và quản lý nước thông minh là xu thế tất yếu. Các chiến lược của quốc gia, từ Chiến lược tăng trưởng xanh đến Chiến lược cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn hay Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn, đều khẳng định rõ điều này.
Ông Lương Văn Anh - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho rằng, việc áp dụng công nghệ xanh, năng lượng tái tạo và quản lý nước thông minh là xu thế tất yếu. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Ông Lương Văn Anh nhấn mạnh, hội thảo là cơ hội để nhìn lại kinh nghiệm thực tiễn, chia sẻ mô hình thành công và thảo luận các giải pháp kỹ thuật phù hợp trong triển khai công nghệ xanh. Đồng thời, đây cũng là diễn đàn quan trọng để cơ quan trung ương, địa phương, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế đề xuất cơ chế chính sách nhằm mở rộng các mô hình hiệu quả, đặc biệt là trong quá trình xây dựng Luật Cấp, Thoát nước và Nghị định về cấp nước sinh hoạt nông thôn.
Thúc đẩy chuyển đổi xanh qua các giải pháp và mô hình cấp nước hiện đại
Thời gian qua, nhiều mô hình thí điểm, đặc biệt là các công trình ứng dụng năng lượng mặt trời do UNICEF hỗ trợ đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong giảm chi phí vận hành, tăng tính bền vững và bảo đảm cung cấp nước an toàn cho người dân. Bên cạnh đó, các sáng kiến như phân loại rác tại nguồn, xử lý nước thải, áp dụng công nghệ quản lý thất thoát nước cũng đang được triển khai ngày càng hiệu quả tại nhiều địa phương.
Tại hội thảo, các đại biểu cũng tập trung chia sẻ 4 nhóm giải pháp tiêu biểu áp dụng công nghệ xanh trong cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Đáng chú ý, trong nhóm giải pháp công nghệ xanh, Công Ty TNHH Tân Á Đại Thành đã nghiên cứu chuyển đổi ruột máy năng lượng mặt trời từ Inox sang nhựa PPR (Polypropylene Random Copolymer) nhằm khắc phục tình trạng ăn mòn do nước phèn và nước mặn. Nhựa PPR chịu nhiệt đến 100°C, bền vững, tuổi thọ ruột bình có thể trên 30 năm và đảm bảo an toàn cho nguồn nước sinh hoạt.
Công nghệ thổi đa lớp PLASMAN cho phép sản xuất ruột PPR với tối đa 6 lớp, đảm bảo độ kín, bền cho sản phẩm. Đây là công nghệ tiên tiến đã được áp dụng tại châu Âu trong lưu trữ nhiệt năng. Thử nghiệm thực tế cho thấy bình năng lượng mặt trời ruột PPR vận hành ổn định, giữ nước nóng 65°C trong trời nắng nhẹ và đạt 100°C khi nắng gắt. Sau nhiều giờ vận hành liên tục, ruột nhựa vẫn giữ hình dạng ổn định, không rò rỉ, chứng tỏ tính thích ứng tốt với điều kiện vùng sông nước và cường độ nắng cao.
Phân tích tại phòng thí nghiệm độc lập xác nhận không phát hiện kim loại nặng hay hợp chất độc hại, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn nguồn nước. Sản phẩm đã được lắp đặt thực tế tại nhiều hộ dân ở Cà Mau, Bến Tre, Sóc Trăng và Trà Vinh.
Đại diện Công ty Tân Á Đại Thành chia sẻ giải pháp máy năng lượng mặt trời cho nguồn nước nhiễm phèn mặn. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Điểm nổi bật khác là việc sử dụng chất đổ bảo ôn Polyol chứa Cyclopentane thay cho HCFC-141b - chất gây suy giảm tầng Ozone. Cyclopentane hạn chế phát thải khí nhà kính và nâng cao khả năng giữ nhiệt của vật liệu PU. Sáng kiến này đã được Ngân hàng Thế giới và Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam) ghi nhận năm 2023, góp phần thúc đẩy phát triển công nghệ xanh trong cấp nước và vệ sinh nông thôn.
Tại hội thảo, các đại biểu cũng tập trung chia sẻ 4 nhóm giải pháp tiêu biểu áp dụng công nghệ xanh trong cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đang được nhiều địa phương quan tâm như: ứng dụng năng lượng tái tạo và thiết bị tiết kiệm năng lượng trong cấp nước nông thôn; công nghệ xử lý nước nhiễm phèn, nhiễm mặn và các dạng ô nhiễm đặc thù tại những vùng chịu tác động mạnh của khí hậu; giải pháp số hóa để giám sát mạng lưới, giảm thất thoát nước và nâng cao hiệu quả dịch vụ; cùng các mô hình vệ sinh nông thôn thích ứng khí hậu, quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn. Bên cạnh đó, hội thảo cũng ghi nhận nhiều ý kiến đóng góp chính sách từ viện nghiên cứu, chuyên gia, doanh nghiệp và các tổ chức phát triển.
Những giải pháp được chia sẻ tại hội thảo cho thấy công nghệ xanh đang từng bước đi vào đời sống người dân nông thôn, từ xử lý nước nhiễm phèn - mặn, ứng dụng năng lượng tái tạo trong cấp nước, đến quản lý thất thoát và xử lý chất thải theo mô hình tuần hoàn. Đây là nền tảng quan trọng để hướng tới mục tiêu mọi người dân nông thôn đều được tiếp cận nguồn nước sạch, dịch vụ vệ sinh an toàn và bền vững.
Thời gian qua, lĩnh vực cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Hiện nay, 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn, trong đó 60% từ công trình cấp nước tập trung và 8% từ cấp nước hộ gia đình. Những kết quả này góp phần quan trọng vào cải thiện sức khỏe cộng đồng, bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Chính phủ.
















