Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa công bố Kịch bản nguồn nước mùa cạn 2025-2026 trên lưu vực sông Cửu Long, theo Quyết định số 4815/QĐ-BNNMT. Kịch bản được xây dựng trên cơ sở phân tích toàn diện hiện trạng, dự báo khí tượng - thủy văn, diễn biến nguồn nước, nhu cầu khai thác và yêu cầu bảo đảm an ninh nguồn nước của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Thời kỳ đánh giá kéo dài từ tháng 11/2025 đến tháng 5/2026.
Tiềm ẩn nguy cơ thiếu nước
Trên cơ sở hiện trạng nguồn nước, cùng các dự báo về khí tượng, thủy văn và nhu cầu khai thác trên toàn lưu vực, cơ quan chuyên môn đã đưa ra nhận định tổng hợp về khả năng đáp ứng nguồn nước sông Cửu Long trong mùa cạn 2025-2026, đồng thời làm rõ các nguy cơ có thể phát sinh để phục vụ điều hành và đảm bảo an ninh nguồn nước, an ninh lương thực.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường vừa công bố Kịch bản nguồn nước mùa cạn 2025-2026 trên lưu vực sông Cửu Long. Ảnh: Minh Anh.
Về nguồn nước thượng nguồn, theo kịch bản, dòng chảy từ Biển Hồ dự báo tiếp tục là nguồn bổ sung quan trọng cho hạ lưu trong giai đoạn từ tháng 11/2025 đến tháng 5/2026. Tổng lượng nước đạt khoảng 47 tỷ m³, cao hơn trung bình nhiều năm và cùng kỳ 2024-2025 từ 20-21%. Tại trạm Kratie, lượng dòng chảy cũng được dự báo đạt 100-112 tỷ m³, cao hơn từ 10-25%. Các tín hiệu tích cực này cho thấy nguồn nước đầu vào cho ĐBSCL mùa cạn 2025-2026 nhìn chung thuận lợi hơn năm trước.
Trong khu vực ĐBSCL, tổng lượng nước về qua Tân Châu và Châu Đốc ước đạt 150-170 tỷ m³, tăng 10-25% so với trung bình nhiều năm. Bên cạnh đó, khả năng xuất hiện mưa trái mùa trong giai đoạn khô hạn sẽ góp phần cải thiện nguồn nước cục bộ cho vùng sản xuất và sinh hoạt.
Về nguồn nước dưới đất, dự báo từ tháng 11/2025 đến tháng 5/2026 cơ bản ổn định và đủ đáp ứng nhu cầu cấp nước. Tuy nhiên, mức độ đáp ứng có sự khác nhau giữa các khu vực. Tại các tỉnh ven biển từ Vĩnh Long đến Cà Mau, một số công trình khai thác nước dưới đất có mực nước động dự báo gần ngưỡng giới hạn 35 m, như các trạm cấp nước ở Bạc Liêu và một số phường nội đô. Dù vẫn duy trì được tổng lưu lượng khai thác khoảng 33.900 m³/ngày đêm, các công trình này cần được theo dõi, giám sát chặt chẽ. Các giếng còn lại có mực nước động từ 25-30 m, đảm bảo duy trì hơn 43.900 m³/ngày đêm.
Tại Cần Thơ, Đồng Tháp và Tây Ninh, một số công trình cũng có mực nước động tiệm cận ngưỡng cho phép, như Nhà máy nước Bình Ảnh, Tân An hay cơ sở khai thác của doanh nghiệp thủy sản. Tổng lưu lượng duy trì khoảng 18.200 m³/ngày đêm. Phần lớn các công trình còn lại vẫn đảm bảo khai thác ổn định.
Về xâm nhập mặn, mức độ được dự báo nhẹ hơn mùa cạn 2024-2025 nhờ hệ thống công trình kiểm soát mặn hoạt động hiệu quả hơn. Ở Tây Ninh, mặn có thể lấn sâu tới Tầm Vu, Vĩnh Công, Tân Trụ theo sông Vàm Cỏ Tây và tới Bình Đức, Bến Lức theo sông Vàm Cỏ Đông. Tại Đồng Tháp, mặn có thể lên đến Mỹ Phong (sông Cửu Tiểu) và Mỹ Tho (sông Cửa Đại). Riêng Vĩnh Long, do hệ thống kiểm soát mặn chưa hoàn chỉnh, mặn có thể lấn sâu vào các xã ven sông Hàm Luông, Cổ Chiên và sông Hậu. Cần Thơ được bảo vệ tương đối tốt nhờ tuyến cống Cái Lớn - Cái Bé. An Giang tiếp tục được che chắn bởi hệ thống công trình ven biển Tây, trong khi Cà Mau vẫn chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn theo sông Ông Đốc và Gành Hào.
Nguồn nước mùa cạn 2025-2026 trên lưu vực sông Cửu Long được đánh giá ở trạng thái “bình thường”, tuy nhiên, nguy cơ thiếu nước cục bộ vẫn có thể xảy ra tại một số xã cuối nguồn. Ảnh: Minh Khang.
Tổng hợp các yếu tố thượng nguồn, nguồn nước mặt, nước dưới đất và xâm nhập mặn cho thấy nguồn nước mùa cạn 2025-2026 trên lưu vực sông Cửu Long được đánh giá ở trạng thái “bình thường”, cơ bản đáp ứng đầy đủ nhu cầu cấp nước sinh hoạt, an sinh xã hội, sản xuất kinh tế và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nguy cơ thiếu nước cục bộ vẫn có thể xảy ra tại một số xã cuối nguồn thuộc Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Cà Mau, chủ yếu do ảnh hưởng xâm nhập mặn và hạ tầng thủy lợi chưa đồng bộ.
Lập kế hoạch khai thác, sử dụng nước phù hợp theo kịch bản
Nhằm giảm nguy cơ thiếu nước cục bộ và phòng chống xâm nhập mặn, đồng thời ưu tiên đảm bảo cấp nước sinh hoạt, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất một số giải pháp trọng tâm cho lưu vực sông Cửu Long.
Trước hết, Bộ Xây dựng và UBND các tỉnh cần lập kế hoạch khai thác, sử dụng nước theo nhu cầu thực tế của từng ngành và địa phương, dựa trên nguyên tắc tiết kiệm, tránh thất thoát và dự phòng thiếu nước trong các tháng cao điểm xâm nhập mặn. UBND các tỉnh cần cập nhật dự báo khí tượng thủy văn, rà soát và cải tạo hệ thống thủy lợi để nâng cao khả năng tích trữ, lưu thông dòng chảy, tránh ứ đọng, ô nhiễm và lập danh mục hồ, ao, đầm, vùng cấm hoặc hạn chế khai thác nước dưới đất.
Các cơ quan Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp triển khai các kịch bản nguồn nước, điều hòa phân phối nước khi thiếu hụt diện rộng và báo cáo định kỳ hiện trạng nguồn nước. Các cục chuyên ngành sẽ hướng dẫn điều chỉnh cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản theo diễn biến nguồn nước, đồng thời theo dõi, dự báo, cảnh báo khu vực nguy cơ thiếu nước, xâm nhập mặn.
Địa phương cần tổ chức khai thác hợp lý nguồn nước, hướng dẫn gieo trồng theo khuyến cáo chuyên môn. Ảnh: Minh Anh.
Đối với các vùng có nguy cơ thiếu nước cục bộ, các tỉnh như Tây Ninh, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cà Mau cần xây dựng kế hoạch ứng phó theo từng mức thiếu hụt, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, kết hợp khai thác nước mặt, nước dưới đất và nước mưa, tăng cường tích trữ nước, đồng thời đầu tư xây dựng các công trình điều tiết, trữ nước, đặc biệt tại vùng khan hiếm nước và đồng bào dân tộc thiểu số.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng nước, địa phương cần tổ chức khai thác hợp lý, hướng dẫn gieo trồng theo khuyến cáo chuyên môn và vận hành công trình thủy lợi linh hoạt theo diễn biến nguồn nước. Bộ Xây dựng và UBND các tỉnh phối hợp nâng cấp nhà máy nước, mở rộng mạng lưới cấp nước, áp dụng công nghệ xử lý nước mặn-lợ và tái sử dụng nước thải để đảm bảo an ninh nước sinh hoạt.
Đối với nước dưới đất, các tỉnh cần kiểm soát khai thác tại các công trình tập trung và giếng khoan nhỏ, nghiên cứu bổ cập nhân tạo nước dưới đất và giám sát các khu vực có nguy cơ sụt lún, ô nhiễm, nhiễm mặn nhằm bảo vệ nguồn nước bền vững.
Những giải pháp này nếu được triển khai đồng bộ, sẽ bảo đảm an ninh nguồn nước, hạn chế thiếu nước cục bộ, phòng chống xâm nhập mặn và duy trì nguồn nước ổn định, an toàn cho sinh hoạt, sản xuất và phát triển kinh tế trên lưu vực sông Cửu Long.















