| Hotline: 0983.970.780

Từ thế hệ làm thủy lợi hôm qua, đến hành trình nước bền vững hôm nay

Thứ Ba 11/11/2025 , 06:49 (GMT+7)

Ngành thủy lợi Việt Nam lớn mạnh nhờ tâm huyết của những người làm thủy lợi, đã gắn bó cả đời mình với nước, biến 'giữ nước' thành sứ mệnh cả đời.

Từ những công trình thủy lợi đầu tiên đến các giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu hôm nay, bao thế hệ người làm thủy lợi đã âm thầm góp sức dựng xây nền nông nghiệp bền vững. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngành Nông nghiệp và Môi trường, chúng tôi có dịp trò chuyện với GS.TS Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM, nguyên Giám đốc Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, nguyên Tổng cục phó Tổng cục Thủy lợi, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, để nhìn lại hành trình của một người gắn bó cả cuộc đời với ngành thủy lợi.

GS Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM. Ảnh: Nguyễn Thủy.

GS Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Hơn 40 năm gắn bó cùng dòng chảy

Tốt nghiệp Tiến sĩ năm 1992 tại Bulgaria, được phong học hàm Giáo sư năm 2016, GS Lê Mạnh Hùng là một trong những chuyên gia đầu ngành về thủy lợi của Việt Nam. Hơn 40 năm gắn bó với nghề, ông đã chủ trì và tham gia hàng chục đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp tỉnh, tập trung vào cơ chế thủy động lực vùng cửa sông - ven biển, chống xói lở bờ biển, quản lý nước và thích ứng biến đổi khí hậu ở ĐBSCL...

Ông là tác giả, đồng tác giả của hơn 90 công trình khoa học trong và ngoài nước; nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích của ông được công nhận và ứng dụng rộng rãi. GS Hùng đã hướng dẫn nhiều nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, đồng thời là Chủ nhiệm chương trình khoa học cấp Quốc gia về Môi trường và Phòng chống thiên tai và là thành viên chương trình khoa học trọng điểm quốc gia về phát triển bền vững Tây Nam Bộ. Với những đóng góp nổi bật, ông nhiều lần được Bộ Nông nghiệp và Môi trường, UBND TP.HCM và Hội Sáng tạo Khoa học - Công nghệ Việt Nam khen thưởng, vinh danh vì những cống hiến to lớn cho ngành thủy lợi Việt Nam.

Chúng tôi gặp GS Lê Mạnh Hùng tại căn phòng làm việc tầng hai của Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM. Căn phòng đơn sơ nhưng tràn đầy năng lượng của những con người đã dành cả đời cho dòng chảy và mạch nước của đất nước. Khi được hỏi về kỷ niệm đáng nhớ, ông mỉm cười: “Làm khoa học thủy lợi nghĩa là làm bạn với nước, khi hiền hòa, khi dữ dội, nhưng luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn và tấm lòng bền bỉ”.

Sinh ra trong thời đất nước còn khó khăn, tuổi trẻ của ông gắn liền với ruộng đồng, đê điều và những con kênh bùn đất - nơi “từng giọt nước cũng là sinh kế của người nông dân”. Ông nhớ mãi những ngày đầu vào Nam công tác, khi ĐBSCL còn là vùng đất hoang sơ, phèn mặn chằng chịt, giao thông cách trở. “Chúng tôi làm đủ việc, từ khảo sát địa hình, địa chất, thủy văn... đến nghiên cứu cải tạo chua phèn đến đào kênh, xây dựng công trình thủy lợi. Có lúc đang khoan thăm dò còn phát hiện cả rocket sót lại sau chiến tranh”, ông kể.

GS Lê Mạnh Hùng và ThS Nguyễn Văn Lân, Tổng thư ký Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM trao đổi công việc. Ảnh: Nguyễn Thủy.

GS Lê Mạnh Hùng và ThS Nguyễn Văn Lân, Tổng thư ký Hội Khoa học và Kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM trao đổi công việc. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Nước - chìa khóa mở cánh đồng no ấm ĐBSCL

Trước năm 1975, toàn vùng ĐBSCL có hơn 4 triệu ha đất, nhưng có tới 1,4 triệu ha lúa bị ngập sâu trong 6 tháng và 1,7 triệu ha nhiễm phèn và 1,3 triệu ha bị nhiễm mặn. Sản lượng lúa của ĐBSCL chỉ đạt 4,6 triệu tấn, chủ yếu là lúa nổi một vụ, năng suất thấp khoảng 2 tấn/ha. Cuộc sống người dân vô cùng khó khăn, hạ tầng thủy lợi gần như trống rỗng.

Sau ngày đất nước thống nhất, an ninh lương thực trở thành nhiệm vụ cấp bách. Từ năm 1976 đến 1981, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam đã thành lập 7 trạm nghiên cứu cải tạo chua phèn, mặn tại Mỹ Lâm, Mộc Hóa, Tân Thạnh (Long An)... Trong điều kiện thiếu bản đồ, số liệu thủy văn, các kỹ sư phải “đi từng con kênh, đo từng mực nước” để từng bước hiểu được điều kiện tự nhiên của vùng đất đầy tiềm năng nhưng khó phát triển này.

Nhiều người cho rằng, rất khó khăn để cải tạo vùng đất phèn mặn này. Chuyên gia Liên Xô khi khảo sát đã phát biểu, để cải tạo được 1ha đất phèn, nơi đây phải chi phí hết 1 triệu USD; chuyên gia Hà Lan thì khuyên không nên đào kênh để tránh tình trạng phèn tiềm tàng gây ô nhiễm trên diện rộng; những nhà thổ nhưỡng học nhiều kinh nghiệm cải tạo chua phèn ở đồng bằng Bắc Bộ thì đề nghị dùng vôi và lân để trung hòa...

GS Lê Mạnh Hùng cùng đồng nghiệp rong ruổi trong những chuyến công tác. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

GS Lê Mạnh Hùng cùng đồng nghiệp rong ruổi trong những chuyến công tác. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Nhưng thay vì dùng hóa chất trung hòa, các nhà khoa học Việt Nam đã tìm ra hướng đi phù hợp, đó là dùng nước rửa phèn, rửa mặn, tận dụng quy luật tự nhiên để cải tạo đất. Giải pháp đó phát huy hiệu quả rõ rệt. Khi nước lũ về, đất được rửa sạch phèn; mùa khô dẫn nước ngọt vào sản xuất, năng suất tăng dù lượng phân bón ít. Từ những kết quả ấy, hàng loạt công trình thủy lợi quy mô lớn được triển khai.

Giai đoạn 1985-1995 là bước ngoặt lớn của ngành thủy lợi miền Nam. Hàng loạt công trình như kênh Hồng Ngự (kênh Trung ương), cống Xuân Hòa, đê ngọt hóa Gò Công được xây dựng; hệ thống kênh mương được nạo vét, mở dòng dẫn nước từ sông Tiền qua sông Vàm Cỏ, cải tạo hàng trăm nghìn ha đất phèn. Nhờ đó, sản lượng lương thực Đồng Tháp Mười tăng từ 369.000 tấn năm 1976 lên 2,6 triệu tấn năm 1994 (tăng gấp hơn 5 lần). Diện tích phèn còn lại chỉ khoảng 80.000 ha, tập trung ở Tràm Chim và Bắc Đông.

Từ năm 1996-2000, ngành tiếp tục mở hướng sang Tứ giác Long Xuyên, đào kênh thoát lũ ra biển Tây, xây dựng hai đập cao su Tha La, Trà Sư để điều tiết dòng chảy từ Campuchia. Hai công trình này giúp giữ nước đầu vụ, rửa phèn, mang phù sa vào ruộng trong mùa lũ chính vụ, đây là một sáng tạo rất riêng của người làm thủy lợi Việt Nam,

Nhờ hệ thống công trình đồng bộ, nhiều vùng đất phèn nặng như Kiên Giang, An Giang trở thành “vựa lúa” trù phú. Các vùng ven biển cũng được đầu tư đê, cống ngăn mặn, cửa van hai chiều, giúp kiểm soát mặn - ngọt linh hoạt, đảm bảo sản xuất và giao thông thủy quanh năm.

Nhiều công trình thủy lợi đã làm đổi thay vùng ĐBSCL, giúp phát triển nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Nhiều công trình thủy lợi đã làm đổi thay vùng ĐBSCL, giúp phát triển nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Thủy lợi - nền tảng xanh cho nông nghiệp và môi trường bền vững

Bước sang thế kỷ 21, hệ thống đê bao và bờ bao được mở rộng, kết hợp giao thông nông thôn, tạo không gian an toàn trong mùa lũ. Hơn 40.000 km đê bao được xây dựng, giúp hàng triệu người dân có cuộc sống ổn định. “Những ký ức đau lòng về lũ lớn năm 2000 đã lùi xa. Đồng bằng hôm nay khác xưa nhiều. Đường làng, cầu cống, nhà cửa, trường học khang trang; nước ngọt, nước mặn đều được kiểm soát tốt”, GS Hùng nói và cho biết, ông đã cùng các đồng nghiệp của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam thực hiện Đề tài “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp thủy lợi phục vụ phát triển nông nghiệp thích ứng vùng lũ ĐBSCL”, giai đoạn 2018-2020.

Qua đó, đề xuất phân vùng ba nhóm giải pháp: vùng thích nghi lũ, vùng kiểm soát lũ theo thời gian và vùng kiểm soát lũ cả năm. Mỗi vùng được khuyến nghị hoàn thiện hệ thống công trình, điều tiết linh hoạt, kết hợp sản xuất nông nghiệp - thủy sản để tăng khả năng trữ nước, cải tạo đồng ruộng và bảo tồn sinh thái. Đề tài cũng kiến nghị xây dựng bổ sung tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho đê bao ĐBSCL - nền tảng quan trọng hướng tới nông nghiệp an toàn, chủ động nước và thích ứng biến đổi khí hậu.

Dẫu vậy, ông cho rằng, ngành thủy lợi đang đối mặt với thách thức mới: lượng nước sông Mekong giảm mạnh do các đập thủy điện thượng nguồn. Trước đây mùa khô có 3.000 m³/s, nay chỉ còn 1.500 m³/s. Nước ít, mặn tiến sâu hơn, đó là bài toán buộc chúng ta phải có giải pháp mới, kết hợp cả công trình và phi công trình.

Hội đồng Giáo sư ngành thủy lợi chụp hình tại phiên họp lần thứ I năm 2024. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Hội đồng Giáo sư ngành thủy lợi chụp hình tại phiên họp lần thứ I năm 2024. Ảnh: Nhân vật cung cấp.

Để thủy lợi phát triển bền vững, GS Hùng cho rằng, cần thay đổi tư duy quản lý. Ngày trước miễn thủy lợi phí là hợp lý, nhưng nay phải tính đúng, tính đủ. Nước là sản phẩm dịch vụ có giá trị. Khi người dân, doanh nghiệp trả phí sử dụng nước, ngành mới có nguồn lực để tái đầu tư, vận hành hiệu quả.

Từng trải qua nhiều cương vị, ở tuổi gần 70, GS Hùng vẫn miệt mài đóng góp cho ngành. “Nghiên cứu phải đi trước một bước. Thủy lợi là nền tảng của nông nghiệp, là lá chắn của môi trường và là chìa khóa cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Học thủy lợi không dễ, nhưng đã học được thì làm được nhiều ngành khác. Những công trình thủy lợi luôn gắn liền với đời sống dân sinh, mang nước, giữ nước, tạo sinh kế và bảo vệ môi trường. Đó là nghề mang lại giá trị thật. Mong thế hệ trẻ tiếp nối, giữ lấy tình yêu đất nước, giữ lấy nước - nguồn sống của dân tộc”, GS Lê Mạnh Hùng gửi gắm đến thế hệ trẻ học thủy lợi mai sau.

Xem thêm
Tìm kiếm tài nguyên cho tương lai

Trong khoảng một thập kỷ qua, nhiều tài nguyên, địa chất khoáng sản được phát hiện tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp, kinh tế xã hội đất nước.

‘Đánh thức’ tài nguyên biển

Những tài nguyên trong lòng biển dần được xác định, điều tra là cơ sở cho việc khai thác bền vững và phát triển kinh tế biển xanh.

Từ thế hệ làm thủy lợi hôm qua, đến hành trình nước bền vững hôm nay
Tài nguyên nước 12 giây trước