Dung tích phòng lũ hạn chế
Trưa 25/10, trước đợt mưa lớn được dự báo kéo dài đến ngày 29/10, mực nước 4 hồ thủy điện A Vương và Đak Mi 4, Sông Tranh 2 và Sông Bung 4 bằng hoặc xấp xỉ mực nước đón lũ thấp nhất. Đặc thù của 4 hồ thủy điện này là dung tích phòng lũ rất nhỏ so với tổng trữ lượng lũ khi xảy ra lũ lớn, nên cần hạ thấp mực nước hồ trước lũ càng thấp càng tốt để vận hành cắt, giảm lũ nhiều hơn do hạ du.
Tuy nhiên, Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn (gọi tắt là quy trình 1865) lại quy định, nếu mực nước tại các trạm thủy văn ở hạ lưu dưới báo động 2 thì việc vận hành hạ thấp mực nước hồ tối đa không thấp hơn mực nước đón lũ thấp nhất.
Đợt mưa lũ lịch sử cuối tháng 10 đã gây thiệt hại nặng nề cho người dân các địa phương hạ lưu Vu Gia - Thu Bồn. Ảnh: Lan Anh.
Theo các chuyên gia, đây là một điểm bất cập của quy trình 1865 bởi trong điều kiện biến đổi khí hậu cần thiết phải hạ thấp mực nước đón lũ thấp nhất nhiều hơn nữa để chủ động vận hành cắt, giảm lũ cũng như cần linh hoạt hạ thấp mực nước hồ trong giai đoạn đầu của lũ dựa trên dự báo và dữ liệu quan trắc lưu lượng lũ về hồ. Nhưng quy định không thấp hơn mực nước đón lũ thấp nhất làm dung tích phòng lũ không được tăng thêm, giảm khả năng cắt, giảm lũ cho hạ du.
Điển hình là đợt lũ đặc biệt lớn xảy ra vừa qua, dung tích phòng lũ lớn nhất của 3 hồ thủy điện trên lưu vực sông Vu Gia là A Vương, Sông Bung 4 và Đak Mi 4 tương ứng mực nước lũ thấp nhất chỉ 274,228 triệu m³, chưa đầy 16,3% tổng lượng lũ về hồ (1,68 tỷ m³); dung tích phòng lũ lớn nhất của hồ thủy điện Sông Tranh 2 là 194,3 triệu m³, chỉ 21,4% tổng lượng lũ về hồ (906,362 triệu m³). Thực tế, chỉ sau khoảng nửa trận lũ không lớn đầu tiên, các hồ gần đầy nước. Các hồ không những không làm giảm được đáng kể lượng nước của các trận lũ không lớn sau đó, mà còn không cắt được các đỉnh lũ tiếp theo, dẫn đến sức tàn phá lớn của lũ về hạ du và gây ngập diện rộng.
Chẳng hạn, tại hồ thuỷ điện Đak Mi 4, dung tích phòng lũ tương ứng với mực nước đón lũ thấp nhất trước lũ chỉ hơn 64 triệu m³, nhưng tổng lưu lượng lũ về hồ toàn đợt lũ đặc biệt lớn này hơn 650 triệu m³. Thực tế, sau khi cắt đỉnh lũ đầu tiên vào chiều 26/10 dù lũ không lớn, thì hồ chỉ còn thấp hơn mực nước dâng bình thường (đầy hồ) là 0,9m, nên không còn khả năng cắt 5 đỉnh lũ sau đó. Hồ thủy điện A Vương có dung tích trống để phòng lũ hơn 84 triệu m³, nhưng sau khi cắt đỉnh lũ của trận đầu vào đêm 27/10 với lưu lượng lũ về hồ cao nhất chỉ 1.409 m³/s, thì mực nước hồ chỉ còn thấp hơn mực nước dâng bình thường là 0,54m, gần như phải xả xấp xỉ hoặc bằng lưu lượng lũ về hồ 2 trận lũ xảy ra tiếp theo.
Thủy điện sông Tranh xả nước về hạ du. Ảnh: Lan Anh.
Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy điện A Vương Ngô Xuân Thế chia sẻ, theo tính toán, khi hồ thủy điện A Vương đã hạ thấp mực nước hồ xuống mực nước đón lũ thấp nhất thì chỉ có khả năng cắt toàn bộ lũ với lượng mưa trung bình trên lưu vực hồ chỉ khoảng 200-250-300mm (tùy thuộc một phần vào khả năng giữ lại nước của rừng, trước đó có mưa hay chưa...). Trong đợt mưa lũ vừa qua (từ ngày 25 - 30/10), lượng mưa trung bình trên lưu vực hồ thủy điện A Vương xấp xỉ 852mm, nên lượng lũ tương ứng với lượng mưa 552mm sau đó thì hồ không có khả năng điều tiết lũ được.
PGS.TS Vũ Thanh Ca, giảng viên cao cấp Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) hoàn toàn đồng ý việc quy định mực nước đón lũ thấp nhất của các hồ thủy điện còn bất cập.
Không cắt được các đỉnh lũ sau
Đợt lũ lịch sử xảy ra từ ngày 25 và 30/10 được xem là đợt lũ đầu mùa trong mùa mưa lũ năm 2025 trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn. Tại 4 hồ thủy điện nói trên xuất hiện từ 3-6 trận lũ liên tiếp với lưu lượng đỉnh lũ không quá lớn. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, cả 4 hồ đều vận hành cắt, giảm lũ (lưu lượng xả nhỏ hơn nhiều so với lưu lượng lũ về hồ) ngay giai đoạn đầu của trận lũ đầu tiên nên sau khi cắt đỉnh lũ không lớn này thì nước nhanh dâng đầy hoặc gần đầy hồ.
Vì thế, trong khoảng thời gian của 2,5-5,5 trận lũ tiếp theo, gần như các hồ không những không làm giảm được đáng kể lũ, mà còn không cắt được các đỉnh lũ. Thực tế này chứng minh, với dung tích các hồ thủy điện trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn quá nhỏ và dung tích phòng lũ quá hạn chế, các hồ vận hành theo quy trình 1865 thì không có khả năng cắt, giảm đáng kể trữ lượng lũ cho hạ du.
Ông Ngô Xuân Thế thông tin, năng lực của hồ thủy điện có hạn. Trong quá trình vận hành hồ cũng đã có nghiên cứu và đề xuất phương án khả thi cắt, giảm lũ cho hạ du theo năng lực của hồ. “Việc tính toán điều tiết lũ và điều tiết nước trong mùa khô của các hồ đều được tính toán với nhiều kịch bản. Sau đó, các bộ, ngành kiểm tra, dựa vào thông số kỹ thuật của hồ và cân nhắc hiệu quả, xác suất xảy ra để quy định quy trình vận hành hồ. Việc đó chặt chẽ, nhưng quy trình 1865 cũng không thể nào lường được các diễn biến của thiên nhiên. Đợt mưa lũ vừa qua là một trường hợp đặc biệt, nên không hiệu quả”, ông Ngô Xuân Thế nhìn nhận.
Hiệu quả điều tiết của các thủy điện trong đợt mưa lũ vừa qua chưa cao do quy trình bộc lộ một số hạn chế, chưa phù hợp thực tiễn. Ảnh: Lan Anh.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đà Nẵng, trong đợt lũ đặc biệt lớn nói trên, công tác vận hành, điều tiết các hồ thủy điện đã được thực hiện, tuân thủ quy định của quy trình 1865. Tuy nhiên, 5 hồ thủy điện Đak Mi 4, Sông Bung 2, Sông Bung 4, A Vương, Sông Tranh 2 chỉ giữ lại được trong hồ gần 356 triệu m³ nước, tương ứng tỷ lệ cắt, giảm lũ cho hạ du chỉ 21,4% tổng lưu lượng lũ về 5 hồ. Các hồ đã sử dụng tối đa dung tích phòng lũ để vận hành giảm lũ cho hạ du từ ngày 25 - 28/10. Sau ngày 28/10, các hồ đã cơ bản đạt mực nước dâng bình thường (đầy hồ) nên chuyển sang chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình hồ chứa.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đà Nẵng Trương Xuân Tý chia sẻ: “Các đơn vị đã cố gắng rất nhiều trong việc vận hành các hồ thủy điện vừa qua, nhưng nhiệm vụ này cũng khó hoàn thành như mong muốn. Nhiều nội dung của quy trình 1865 quy định còn chưa linh hoạt nên khó quyết định cho phù hợp với thực tế”.
Tại tại Kỳ họp thứ 4 (chuyên đề) HĐND TP Đà Nẵng khóa X giữa tháng 11 vừa qua, ông Trần Nam Hưng, Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cho biết, từ thành phố đến các xã, phường đều đã xây dựng kịch bản, phương án chi tiết cho các tình huống thiên tai, xác định 11 điểm sạt lở lớn và gần 100 điểm nguy hiểm, có danh sách hộ cụ thể. Tuy nhiên, diễn biến thiên tai năm nay rất bất thường, quy mô lớn và khốc liệt, khiến công tác dự báo gặp nhiều khó khăn.
Về quy trình vận hành liên hồ chứa, quy trình 1865 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sau quá trình làm việc với các bộ, ngành và chuyên gia. Thành phố đã giám sát việc vận hành, kiểm tra thực tế và khẳng định các thủy điện vận hành đúng quy trình. Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết chưa cao do quy trình này bộc lộ một số hạn chế, chưa phù hợp thực tiễn.
Theo quy định, khi mực nước hồ đạt một mức nhất định thì không được xả, trong khi hạ lưu vẫn trên báo động I, dẫn đến bị động khi đón đợt lũ tiếp theo. Ông Hưng cho biết sẽ phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường kiến nghị với Chính phủ điều chỉnh quy trình 1865 theo hướng linh hoạt hơn, trao thêm quyền chủ động cho Chủ tịch thành phố, Chủ tịch tỉnh.
Theo PGS.TS Vũ Thanh Ca, việc thực hiện theo quy trình 1865 có cắt lũ, nhưng có thể do quy trình vận hành liên hồ này còn bất cập nên chưa cắt lũ được nhiều cho hạ du.
“Quy trình vận hành vẫn còn bất cập và chưa thực sự hiệu quả. Vụ việc năm 2024 của hồ thủy điện Thác Bà và năm nay ở các hồ thủy điện khu vực Trung Trung Bộ cho thấy rõ những bất cập của quy trình vận hành. Do vậy, tất cả các quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông đang được áp dụng cần được rà soát để sửa đổi và ban hành quy trình mới. Việc điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa rất phức tạp và cần có góc nhìn từ nhiều phía!”, PGS.TS Vũ Thanh Ca nhấn mạnh.



















