| Hotline: 0983.970.780

Cùng ĐBSCL ứng phó với thiên tai, biến đổi khí hậu

Ứng dụng công nghệ, vật liệu thân thiện môi trường

Thứ Năm 02/10/2025 , 09:51 (GMT+7)

Công nghệ mới, vật liệu thân thiện môi trường cùng trí tuệ nhân tạo được kỳ vọng mang lại giải pháp bền vững bảo vệ bờ sông, bờ biển ĐBSCL trước biến đổi khí hậu.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - vựa lúa, vựa thủy sản lớn nhất cả nước đang đối mặt với thách thức sạt lở bờ sông, bờ biển diễn biến ngày càng phức tạp.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp và đoàn công tác cùng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam khảo sát sạt lở bờ biển Gò Công (Tiền Giang). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp và đoàn công tác cùng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam khảo sát sạt lở bờ biển Gò Công (Tiền Giang). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Những “điểm nóng” sạt lở

Hiện toàn vùng ĐBSCL có 531 điểm sạt lở với tổng chiều dài hơn 681 km. Trong đó, bờ sông chiếm đa số với 500 điểm (518 km), bờ biển 31 điểm (163 km).

Cà Mau (cũ) là địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, với 97 điểm sạt lở, kéo dài gần 199 km. Trong đó, riêng sạt lở bờ biển chiếm hơn 53% tổng chiều dài sạt lở ven biển của vùng. Ngoài ra, Vĩnh Long (cũ) và An Giang (cũ) là hai địa phương ghi nhận nhiều đoạn sạt lở nghiêm trọng, tổng chiều dài sạt lở lần lượt 190 km và 155 km.

Tại các tỉnh đầu nguồn, An Giang có 11 điểm đặc biệt nguy hiểm, Đồng Tháp 5 điểm, Vĩnh Long 7 điểm. Trên bờ biển, Cà Mau tiếp tục là “điểm nóng” khi chỉ có 4 điểm nhưng kéo dài tới 36,6 km, chiếm gần 2/3 chiều dài sạt lở đặc biệt nguy hiểm ven biển của cả vùng.

Đáng chú ý, giai đoạn 2022- 2024, số điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm đã giảm từ 99 xuống 34, chiều dài giảm từ 214 km xuống 91 km. Dù xu hướng giảm là tín hiệu tích cực, song một số địa phương như Cần Thơ và Cà Mau vẫn tiếp tục đối diện những đoạn sạt lở quy mô lớn, gây rủi ro cao.

Theo ThS Lê Thanh Chương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chính trị sông và phòng chống thiên tai (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam), thực tế, sạt lở thường diễn ra vào đầu mùa mưa và cuối mùa lũ, khi dòng chảy và mực nước thay đổi đột ngột. Các điểm sạt lở tập trung ở sông nhánh, kênh rạch, nơi hợp lưu, phân lưu hoặc dòng chảy mạnh.

Có thể thấy, sạt lở ở ĐBSCL là hệ quả của cả yếu tố tự nhiên và tác động của con người. Về tự nhiên, thay đổi hình thái dòng chảy, chế độ thủy văn, nền địa chất yếu, sóng và gió ven biển đều góp phần gây xói mòn bờ.

Trong khi đó, hoạt động xây dựng, vận hành hồ chứa thượng nguồn, khai thác cát quá mức, khai thác nước ngầm gây lún, phát triển hạ tầng dọc bờ và giao thông thủy đã làm tình trạng sạt lở thêm phức tạp và nghiêm trọng hơn. Sự cộng hưởng của các yếu tố này đe dọa trực tiếp đời sống dân cư, sản xuất nông nghiệp và hệ thống hạ tầng vùng.

Công trình giảm sóng kết cấu rỗng TC1, TC2 khu vực Cồn Cống, Tân Phú Đông (Tiền Giang cũ). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Công trình giảm sóng kết cấu rỗng TC1, TC2 khu vực Cồn Cống, Tân Phú Đông (Tiền Giang cũ). Ảnh: Nguyễn Thủy.

Giải pháp công nghệ hiện đại

Trước tình hình này, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam đã triển khai nhiều mô hình thí điểm bảo vệ bờ bằng công nghệ hiện đại, tập trung vào giải pháp thân thiện với môi trường và thích ứng với điều kiện tự nhiên của từng khu vực.

Một trong những giải pháp nổi bật là công nghệ kè giảm sóng xa bờ kết cấu rỗng TC1, TC2. Công nghệ này có thể giảm sóng tới 70%, tạo điều kiện gây bồi, khôi phục rừng ngập mặn. Ưu điểm là công trình ổn định trên nền đất yếu, cấu kiện được đúc sẵn, thi công nhanh, chất lượng đồng đều và có thể tái sử dụng.

Song song với công trình, Viện cũng đẩy mạnh quản lý tổng hợp bảo vệ bờ, kết hợp giải pháp công trình với phi công trình, như lắp đặt biển cảnh báo, lập bản đồ dự báo rủi ro sạt lở, đề xuất chỉnh trị bờ sông, xây dựng kế hoạch khai thác cát bền vững.

“Các mô hình này đã được áp dụng thí điểm tại Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ, bước đầu cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc bảo vệ bờ và hạ tầng dân sinh”, ThS Lê Thanh Chương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chính trị sông và phòng chống thiên tai (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam) cho hay.

Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, trong những năm gần đây, nhiều loại vật liệu mới, thân thiện với môi trường được nghiên cứu, thử nghiệm nhằm thay thế giải pháp truyền thống. Đơn cử như ở ven biển, sử dụng đê mềm GeoTube bằng ống vải địa kỹ thuật được bơm cát và nước tạo thành kết cấu linh hoạt chắn sóng dễ thi công. Ngoài ra, hàng rào tre giảm sóng, gây bồi cũng là giải pháp quen thuộc, góp phần ổn định bờ.

Trong sông, các biện pháp trồng thảm thực vật, kè sinh thái kết hợp bao tải cát được triển khai nhằm gia cố mái bờ.

“Khi kết hợp dữ liệu quan trắc thực tế với các mô hình thủy động lực học, AI rút ngắn thời gian tính toán, nâng cao độ chính xác và hỗ trợ xây dựng bản đồ nguy cơ theo thời gian thực.

Tuy vậy, theo ThS Lê Thanh Chương, các công trình này vẫn chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng, còn một số hạn chế như: tuổi thọ ngắn, khả năng chịu lực chưa cao, phạm vi áp dụng bó hẹp. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến vật liệu, thử nghiệm thực địa dài hạn để nâng cao hiệu quả và mở rộng khả năng ứng dụng rộng rãi hơn tại ĐBSCL.

Không chỉ dừng lại ở công trình, Viện cũng chú trọng đến ứng dụng công nghệ số. Trí tuệ nhân tạo (AI) được đánh giá có vai trò quan trọng trong dự báo sạt lở và thiên tai. AI có thể xử lý dữ liệu khổng lồ từ trạm khí tượng, thiết bị đo đạc, ảnh vệ tinh, radar, cảm biến IoT… để xác định khu vực nguy hiểm, đưa ra cảnh báo sớm. Công nghệ học sâu (Deep Learning), đặc biệt là mạng nơ-ron (CNN), giúp phân tích ảnh vệ tinh, phát hiện dấu hiệu sạt lở, đánh giá thiệt hại.

PGS.TS Trần Bá Hoằng, Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam chia sẻ, việc ứng dụng AI ở ĐBSCL hiện còn mới, đòi hỏi nhiều dữ liệu đầu vào và thiết bị hỗ trợ. Trong tương lai, cần đầu tư nghiên cứu vào hạ tầng số để phát triển công nghệ này.

Bên cạnh nỗ lực nội tại, Viện đã phối hợp với nhiều tổ chức quốc tế trong việc ứng dụng công nghệ. Đơn cử như phối hợp với GIZ (Đức), nghiên cứu công nghệ camera giám sát đường bờ biển, cảnh báo sạt lở theo thời gian thực. Giải pháp này không chỉ giúp quản lý tốt hơn mà còn xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ quy hoạch dài hạn.

Trong bối cảnh thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, bảo vệ bờ sông, bờ biển ĐBSCL không thể chỉ dựa vào biện pháp ngắn hạn mà cần một chiến lược tổng thể, đa công nghệ, kết hợp công trình và phi công trình, lồng ghép trí tuệ nhân tạo và vật liệu mới, đặc biệt, cần có giải pháp phải thân thiện môi trường.

Xem thêm