Trong kỷ nguyên số, dữ liệu đã vươn lên thành nguồn tài nguyên chiến lược, là “dầu mỏ mới” và được ví như “mạch máu” của nền kinh tế số. Việc xây dựng, quản lý và khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu (CSDL) không chỉ mang ý nghĩa công nghệ mà còn là nhiệm vụ chính trị chiến lược, gắn liền với hiệu quả quản lý nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hướng tới chính quyền số, xã hội số và kinh tế số.
Dữ liệu - Tài nguyên chiến lược của thời đại số
Tham luận tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030, Cục trưởng Cục Chuyển đổi số Lê Phú Hà cho rằng, xây dựng CSDL là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài, thể hiện trách nhiệm của cả hệ thống chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân. Công tác này đòi hỏi sự đồng bộ, chuẩn hóa, kết nối và bảo mật, để phục vụ hiệu quả quản lý, điều hành, cải cách hành chính và phát triển kinh tế – xã hội.
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã xác định dữ liệu là trung tâm của chuyển đổi số, cùng với thể chế, nhân lực, hạ tầng và công nghệ chiến lược tạo thành các trụ cột cốt lõi. Mục tiêu đặt ra đến năm 2030 là hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ CSDL quốc gia và các ngành; đảm bảo an toàn, an ninh thông tin; khai thác hiệu quả tài nguyên số; hình thành sàn giao dịch dữ liệu.
Ông Hà viện dẫn lời Tổng Bí thư Tô Lâm từng nhấn mạnh: “Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số, nơi dữ liệu đã trở thành tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng. Chuyển đổi số, với dữ liệu là trung tâm, đang làm thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và phát triển.”
Công cụ hiệu quả cho lãnh đạo, điều hành
CSDL giúp các cấp lãnh đạo nắm chắc tình hình thực tiễn, điều hành kịp thời, ra quyết định chính xác và hiệu quả. Dữ liệu được phân tích để nhận diện xu hướng, dự báo rủi ro, điều chỉnh chính sách phù hợp. Đây cũng là công cụ giám sát, đánh giá hiệu quả công việc, phát hiện “điểm nghẽn” để khắc phục.

Khi được kết nối, liên thông, CSDL phản ánh trạng thái xã hội, kinh tế và môi trường, giúp lãnh đạo chọn đúng người, đúng việc, đúng thời điểm, nâng cao hiệu lực quản lý, tiết kiệm thời gian, chi phí xã hội, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Trong cải cách hành chính, CSDL đóng vai trò giảm thiểu giấy tờ, hồ sơ, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục, góp phần xây dựng chính quyền số lấy người dân làm trung tâm. Khi dữ liệu được chia sẻ và khai thác hiệu quả, dịch vụ công trực tuyến toàn trình trở nên khả thi, phục vụ người dân mọi lúc, mọi nơi, giảm chi phí tuân thủ và hạn chế tình trạng kê khai lặp lại.
Việc minh bạch hóa quá trình xử lý thủ tục nhờ CSDL cũng tạo điều kiện giám sát công vụ, nâng cao niềm tin của người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Những kết quả bước đầu của ngành Nông nghiệp và Môi trường
Ngành Nông nghiệp và Môi trường hiện có trên 107 cơ sở dữ liệu quốc gia, lĩnh vực và chuyên ngành. Trong đó có một số kết quả nổi bật như CSDL quốc gia về đất đai đã bao phủ phần lớn diện tích cả nước, hoàn thành tại các địa bàn phát triển, còn lại chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa. Hơn 49,7 triệu thửa đất đã được số hóa, phục vụ quản lý và giải quyết thủ tục hành chính; kết nối với CSDL quốc gia về dân cư để cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình về cư trú.
CSDL nền địa lý quốc gia và bản đồ địa hình các tỷ lệ cơ bản phủ trùm toàn quốc, phục vụ lập quy hoạch, phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh.
CSDL viễn thám quốc gia (vận hành từ 2025) lưu trữ ảnh viễn thám mua từ nước ngoài, ảnh trao đổi, tặng, và sản phẩm ảnh từ các đề án, dự án ứng dụng công nghệ viễn thám.
CSDL nghề cá quốc gia (Vnfishbase) (vận hành từ 2019) đáp ứng yêu cầu quản lý khai thác thủy sản, đặc biệt dữ liệu tàu cá từ 15m trở lên, phục vụ truy xuất nguồn gốc thủy sản điện tử và điều hành sản xuất.
Xây dựng giải pháp đưa cơ sở dữ liệu thành nguồn lực chiến lược
Để CSDL thực sự trở thành nguồn lực chiến lược, Đảng bộ Cục Chuyển đổi số đề xuất một số nhiệm vụ, trong đó xác định rõ nhiệm vụ chính trị nhằm quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Trung ương; coi CSDL là “tài nguyên chiến lược” của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; phân định rõ trách nhiệm từng cấp, từng cá nhân trong xây dựng, quản lý dữ liệu.
Tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức, tổ chức truyền thông sâu rộng về vai trò của CSDL; phát động phong trào thi đua chuyển đổi số, khai thác dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn kỹ thuật: Xây dựng hành lang pháp lý để dữ liệu được kết nối, chia sẻ, khai thác tối đa, đảm bảo an toàn và chủ quyền.
Ứng dụng công nghệ đột phá phải đầu tư hạ tầng lưu trữ, xử lý dữ liệu; ứng dụng AI, Big Data, IoT, blockchain trong thu thập, xử lý và truy xuất nguồn gốc nông sản; thống nhất quản lý để tránh phân tán dữ liệu.
Kết nối, liên thông dữ liệu phải luôn thực hiện việc tích hợp, cung cấp, chia sẻ dữ liệu mở; thúc đẩy liên thông giữa hệ thống CSDL Đảng, chính quyền và các ngành khác.
Bên cạnh đó, sử dụng dữ liệu làm căn cứ xây dựng nghị quyết, chương trình hành động; đưa tiêu chí sử dụng dữ liệu vào đánh giá cán bộ; triển khai nền tảng thông minh, hệ thống phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để dự báo thị trường, cảnh báo dịch bệnh, thiên tai.
Bố trí đủ nguồn lực; xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu; hợp tác quốc tế và với doanh nghiệp công nghệ để phát triển hệ sinh thái dữ liệu ngành.
Đưa nội dung giám sát việc xây dựng và khai thác CSDL vào chương trình kiểm tra của Ủy ban Kiểm tra; khen thưởng tập thể, cá nhân xuất sắc; xử lý nghiêm trường hợp vi phạm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ.
Theo ông Lê Phú Hà, CSDL không chỉ là công cụ quản lý mà còn là “động lực và nguồn lực chiến lược” của ngành Nông nghiệp và Môi trường. Khi được xây dựng đồng bộ, khai thác hiệu quả, dữ liệu sẽ trở thành sức mạnh nội sinh, góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính, phục vụ người dân và doanh nghiệp, đồng thời mở ra cơ hội phát triển kinh tế dữ liệu, đưa ngành tiến nhanh trên con đường chuyển đổi số toàn diện.